VIỆT NAM TRUYỆN
Thanh sử cảo, quyển 527
Niên đại: 1920
Tác giả: Triệu Nhĩ Tốn
Thanh sử cảo là tác phẩm được bắt đầu biên tập dưới thời
Trung Hoa dân quốc, nhằm mục đích viết nên một bộ chính sử về thời nhà Thanh
theo thể thức kỷ-truyện như các tác phẩm khác trong “Nhị thập tứ sử”. Tuy nhiên
vì lí do chính trị cũng như học thuật mà công tác biên soạn đến nay vẫn chưa hoàn
tất. Phần liệt truyện về Việt Nam của sách này có một số sai sót nhất định,
nhưng vẫn là tư liệu quan trọng đối với giới nghiên cứu.
***
"Thọ Xương giang chi chiến", miêu tả cảnh quân Thanh vượt sông Cầu trên đường tiến vào nước ta. |
Việt
Nam trước kia gọi là An Nam. Đầu thời Thuận Trị (1643-1661), An Nam Đô thống sứ
Mạc Kính Diệu đến quy phụ. Chưa nhận tước đã mất, nên trao con trai là Mạc Nguyên Thanh chức Đô thống sứ [1].
Tháng 8 năm thứ 16 (1659), Kinh lược Đại học sĩ Hồng Thừa
Trù mới tâu rằng nước An Nam sai viên mục lại là Ngọc Xuyên bá Đặng Phúc Tuy,
Triều Dương bá Nguyễn Quang Hoa mang tờ khải đến cửa quân của Tín quận vương, tỏ
lòng thành nạp khoản. Tháng 9 năm thứ 17 (1660), Lê Duy Kỳ lần đầu tự xưng
quốc vương, dâng biểu cống phương vật. Ban cho vóc thêu hoa văn và bạc. Năm thứ
18 (1661), ra sắc rằng: “Trẫm ban đức cho người phương xa, là mưu lớn của thời
thịnh trị; ngươi nạp khoản theo về nhân nghĩa, là cái đúng của kẻ làm tôi. Đã
đem lòng thành mà hướng giáo hóa, nên dùng chiếu mệnh để tuyên ân. Khen lòng
trung, khuyến tính lành, là coi rất trọng vậy. An Nam quốc vương Lê Duy Kỳ nhà
ngươi, xứ hẹp cõi nóng, giữ lấy dân mình, đã biết kính phục thanh giáo, sai sứ
đến quy thuận trước. Nhìn vào biểu văn thì thấy được lòng thành. Người xưa nói kẻ
thức thời là tuấn kiệt, vương có lẽ cũng vậy. Dùng sắc mệnh khen thưởng, lại ban
cho quan ngươi sai đến các thứ rễ thoa nhân, tiền bạc, y phục, khiển một viên
Thông sự tự ban tiễn đến Quảng Tây, dọc đường phát binh mã dẫn lối rời biên
cương. Ngươi nhận ân sủng thì càng phải gắng giữ trung tiết, mãi làm phên dậu,
kính giữ chức cống, vâng lời không đổi. Khâm tai! [2]”
Ít lâu sau, Duy Kỳ mất. Con trai là Duy Đề nối ngôi rồi lại
chết, con trai là Duy Hy nối ngôi [3]. Tháng 11 năm Khang Hy thứ 2 (1663), Duy
Hy khiển bọn Lê Hiệu dâng biểu tạ ơn và cống phương vật. Tháng 2 năm thứ 3
(1664), khiển Nội viện Biên tu Ngô Quang, Lễ bộ Tư vụ Chu Chí Viễn đi dụ tế cố
vương Duy Kỳ, Duy Đề. Tháng 5 năm thứ 5 (1666), Duy Hy giao nộp sắc và ấn của cố
Minh vương Vĩnh Lịch. Khiển Nội quốc sử quán, Hàn Lâm Học sĩ Trình Phương
Triều, Lễ bộ Lang trung Trương Dịch Bôn sách phong Duy Hy làm An Nam quốc
vương, ban ấn bạc thếp vàng núm hình lạc đà.
Năm thứ 6 (1667), Duy Hy đoạt đất Cao Bằng của Đô thống sứ
Mạc Nguyên Thanh. Nguyên Thanh chạy
sang Vân Nam dâng sớ tố cáo. Hoàng đế mệnh an trí ở Nam Ninh. Duy Hy cũng dâng
sớ nói đầu đuôi việc hưng binh phục thù: Ban đầu, vào năm Chính Đức thứ 11 triều
Minh (1516), quan đốt hương ở xã đường là Trần Cảo giết
vương nước này Lê Trừu rồi tự lập; bề tôi của Trừu là Đô lực sĩ Mạc Đăng Dung đánh
giết Cảo, lập con của em trai Trừu là Huệ; năm Gia Tĩnh thứ 1 (1522), Đăng Dung đuổi Huệ để
tự lập; con trai Huệ là Lê Bình chiếm cứ Thanh Hoa, tự làm thành một nước; về sau họ Mạc suy dần, song vẫn giữ một quận Cao Bằng, thế ngày một yếu. Đến nay, Hoàng
đế khiển Nội viện Thị độc Lý Tiên Căn, Binh bộ Chủ sự Dương Triệu Kiệt mang sắc
dụ Duy Hy đem đất đai, nhân dân Cao Bằng trả cho Mạc Nguyên Thanh: “Cả hai
giữ lấy đất mình, làm tròn chức phận phên dậu.”
Ban
đầu, quy định An Nam ba năm cống một lần. Năm thứ 7 (1668), Duy Hy dâng sớ xin sáu
năm cống hai lần; Hoàng đế đồng ý lời xin. Năm thứ 8 (1669), bọn sứ thần Lý
Tiên Căn mang phúc sớ của Duy Hy về, nói đã tuân chỉ, đem đất đai, nhân dân ở
Thạch Lâm, Quảng Nguyên, Thượng Lãng, Hạ Lãng thuộc phủ Cao Bằng trả cho Mạc
Nguyên Thanh. [Nguyên Thanh] nhân đó tâu rằng đất đai Lê Duy Hy đem trả vẫn còn
2 châu Bảo Lạc, Thất Nguyên, 12 tổng xã như Côn Lôn,
Kim Mã chưa trả, xin sắc dụ lần nữa để trả hết. Hoàng đế không đồng ý.
Năm
ấy, Lê Duy Hy hoăng, em trai là Lê Duy Định tạm quản việc nước. Tháng giêng năm thứ 13 (1674), Duy Định khiển bọn bồi thần
Hồ Sĩ Dương đem cáo phó dâng lên. Năm Khang Hy thứ 11 (1672), đến cống, sớ viết
rằng:
Tiên vương đời đời giữ An Nam, bị nghịch thần
Mạc Đăng Dung soán thí, nhờ vào ông tổ của phụ chính Trịnh Ức tiễu trừ khôi phục. Bọn nghịch Mạc còn sót chiếm
cứ Cao Bằng, lúc xưng thần lúc làm phản. Đến đời Mạc Nguyên Thanh thì sợ thần
trị tội nên vào nội địa đầu hàng. Năm Khang Hy thứ 8 (1669), nhận mệnh lệnh trả
lại Cao Bằng. Thần Duy Hy khâm phụng mệnh vua, không dám không tuân. Song Mạc
Nguyên Thanh với thần là cừu thù không thể sống chung, Cao Bằng là đất giữ nhiều
đời, bị phản nghịch chiếm trộm, gây họa nơi vách tường. Khấu đầu xin ơn trời, cho
Cao Bằng trở về bản quốc. Hơn nữa Mạc Nguyên Thanh còn có lời thề và bài văn tế
cha y Mạc Kính Diệu, bên trong viết lời mưu nghịch Thiên triều. Nay kính cẩn trình
lên và cống phương vật.”
Giao việc ấy xuống các bộ bàn, thì có
lời bàn rằng:
“Trước kia Duy Hy trả Cao Bằng cho Mạc
Nguyên Thanh, giữ lấy mà lại hòa hiếu gắn kết với nhau. Nay Duy Định tuy nói
thu được lời thề và văn tế, song văn ấy lâu năm, lời thề gắn tên Mạc Kính Diệu,
hoặc có từ thời Kính Diệu còn sống, hoặc từ Nguyên Thanh ngày nay, rất khó nắm
được. Nên bảo Duy Định tra rõ rồi đệ trình lên bàn lại.”
Đồng ý.
Năm
thứ 14 (1675), Lê Duy Định mất, em trai là Duy Chính tạm quản việc nước. Năm thứ 16 (1677), Hoàng
đế dụ Duy Chính rằng: “Nghịch tặc Ngô Tam Quế gặp lúc giặc Sấm gây biến cuối thời Minh nên đem mình theo giặc,
thấy cha chết trong tay giặc thì chạy trốn theo về [triều đình]. Thương lòng
thành của hắn nên ban cho tước vương, đáng lẽ phải cảm ân báo đáp, dốc lòng
trung thành. Không ngờ lại nảy lòng cú vọ, nuôi kế vượn khỉ, âm mưu sai trái, tự
dấy mầm thù. Cậy được di dời [4] nên liền làm trò phản nghịch, kẻ gian bị mê
hoặc, sinh linh chịu lầm than. Trẫm nhiều năm khiển binh chinh thảo, Tần, Lũng đã định, Mân, Việt cũng bình, chỉ có Ngô Tam Quế chiếm cứ một
cõi, dây dưa sớm tối. Nay đại binh tập hợp, sợ hắn bỏ chạy, trốn vào Lĩnh Nam.
Thấy vương nhiều đời làm phên dậu, hết lòng trung với Thiên quốc, thì với bọn
loạn thần tặc tử hẳn cũng là cừu thù. Nay đã sai các quân lên đường đánh dẹp,
bình định Việt Tây,
tiến lấy Điền, Kiềm.
Đất đai nước vương nối liền, hiểu rõ hình thế, vương hãy tuyển chọn tướng sĩ, hiệp lực diệt trừ, tưởng
thưởng khen ngợi, thì triều đình sẽ có lệnh điển. Khâm tai, chớ phụ mệnh Trẫm!”
Tháng
giêng năm thứ 18 (1679), Duy Chính chúc mừng đại thắng, sớ viết rằng: “Nghịch tặc Ngô Tam Quế biến loạn nhiều
năm, chặn đường cống của thần, lại hai ba lần uy hiếp dụ dỗ, bắt phải đi theo.
Thần khư khư ngu trung, chẳng dám đổi tiết. Lại có nghịch thần Mạc Nguyên Thanh
bí mật liên kết với Tam Quế, ngầm vào Cao Bằng mưu đồ đánh úp. Nay xin dựa uy
trời để truy bắt nghịch đảng, vạch rõ tội trạng, giữ vững phên dậu.” [Triều
đình] đồng ý.
Tháng
9 năm thứ 21 (1682), Duy Chính khiển bọn bồi thần Giáp Toàn dâng hiểu chúc mừng
quét sạch Mân, Việt, đồng thời dâng phương vật tuế cống, lại xin ban tử tuất
cho cố vương Duy Định. Bàn rằng sẽ gia tuất như lệ. Bấy giờ đồ cống là chén bát
vàng bạc không đồng đều như trước, nên xuống chiếu miễn đòi thêm. Cống vật còn
lại thì châm chước giảm bớt các thứ lụa trắng, giáng chân hương, hương nén đen.
Tháng
4 năm thứ 22 (1683), khiển Hàn Lâm viện Thị độc Minh Đồ, Hàn Lâm viện Biên tu
Tôn Trác sách phong Duy Chính làm An Nam quốc vương, ban ngự thư viết bốn chữ “Trung hiếu thủ bang” [5]. Đồng thời khiển Hàn Lâm viện Thị độc Ổ Hắc,
Lễ bộ Lang trung Chu Xán đi tế cố vương Duy Hy, Duy Định. Bấy giờ Mạc Nguyên
Thanh đã mất, em trai là Kính Quang [6]
bị họ Lê đánh bại nên đem người chạy trốn. Hoàng đế mệnh trả
về An Nam. Thế rồi Kính Quang bệnh mất ở Tứ Thành, nên họ Mạc chấm dứt.
Năm
thứ 25 (1686), ban thêm cho An Nam quốc vương 50 biểu lí [7], đặt làm lệ. Năm thứ 36 (1697), Duy Chính tâu
rằng ba xứ Ngưu Mã, Hồ Điệp, Phố Viên bị thổ ty [8] giáp
giới xâm chiếm, xin trả lại. Hoàng đế hỏi Tuần kiểm Thạch Văn Thịnh ở Vân Nam,
biết đất ấy thuộc phủ Khai Hóa đã hơn 30
năm, không phải đất cũ của An Nam, nên gửi thư trách cứ.
Tháng
10 năm thứ 57 (1718), Lê Duy Chính hoăng, vương tự tử [9] là Duy Đào cáo phó, xin tập phong [10] và cống phương vật. Tháng 2 năm thứ 58 (1719), khiển Nội
các Trung thư Đặng Đình Đề, Hàn Lâm viện Biên tu Thành Văn đi tế cố vương Duy
Chính và sách phong Duy Đào làm An Nam quốc vương.
Năm
Ung Chính thứ 2 (1724), Duy Đào khiển bồi thần dâng biểu chúc mừng lên ngôi và
cống phương vật. Ban ngự thư viết bốn chữ “Nhật Nam thế
tộ” [11].
Năm
thứ 3 (1725), Vân Nam Đề đốc Cao Kỳ Trác tâu rằng:
“Phủ Khai Hóa ở Vân Nam giáp giới An Nam, từ
tấn [12] Mã Bá ở phủ Khai Hóa đi ra 40 lí đến sông nhỏ dưới chân núi Duyên Xưởng [13] có 6 trại và sách [14], nộp lương thực mùa thu hơn 12 thạch. Năm
Khang Hy thứ 28 (1689), nhập vào An Nam. Sách “An Nam thông chí” viết rằng từ
huyện Văn Sơn phủ Khai Hóa về phía nam 240 lí đến sông Đổ Chú là biên giới với An Nam. Nay
từ phủ Khai Hóa đến tấn Mã Bá hiện tại chỉ có 120 lí, còn tính từ sông nhỏ dưới núi Duyên Xưởng
cũng chỉ 160 lí. Tám mươi lí bên ngoài sông nhỏ dưới núi Duyên Xưởng có đặt
hai xưởng Đô Long, Nam Đan, là bờ cõi cũ của Vân Nam. Tuy mất thời Minh trước,
song việc cương vực hệ trọng, cần thiết phải cùng nhau thanh tra, khám xét mà lập
giới.”
Hoàng đế dụ:
“Các xứ Đô Long, Nam Đan cuối thời Minh nhập
vào An Nam, không phải bị xâm chiếm vào triều ta. An Nam từ thời triều ta đến
nay nhiều đời cung thuận, không nên tranh đoạt vài ba tấc đất với họ.”
Duy Đào cũng dâng sớ biện bạch. Tổng đốc
sau là Ngạc Nhĩ Thái dâng sớ xin lập giới từ sông nhỏ dưới núi Duyên Xưởng lệ cho
lệ vào tấn Mã Bá, nhưng Duy Đào lại tranh cãi quyết liệt.
Năm thứ 5 (1727), dụ Duy Đào rằng:
“Trẫm thống ngự bờ
cõi, phàm các nước thần thứ chẳng đâu không phải đất của Trẫm, hà tất tranh
giành khư khư 40 lí đất ấy! Song phân cương định giới là cái chính hàng đầu, chia
vạch đất hoang là việc chung một thể. Nay Mông Cổ xa xôi còn vâng dụ ban xuống,
chẳng dám không khâm thừa. Há nào nước vương vốn xưng là nước lễ nghĩa, mà cách
biệt một mình ngoài vòng đức hóa sao? Vương bất tất vì xâm chiếm nội địa mà dấy
hiềm khích, chăm chăm bao biện. Đấy là cái sai của tiền nhân, không phải lỗi lầm
của vương. Nếu vương Duy Kỳ tuân dụ chỉ thì Trẫm không truy xét. Giả sử có ý trở
mặt, bỏ lễ cung thuận như trước, ắt tự chuốc tai vạ. Trẫm có lòng nhân với người
phương xa, vương há không biết đón mừng sao? Vương hãy nhớ lấy, đừng trái mệnh Trẫm!”
Duy Đào hối lỗi, dâng tấu tạ tội. Hoàng đế nhân đó lấy 40 lí đất ngoài tấn
Mã Bá ban cho Duy Đào, vẫn lấy sông nhỏ Đổ Chú ở tấn Mã Bá làm biên giới. Tháng
3 năm thứ 6 (1728), khiển Phó đô ngự sử Hàng Dịch Lộc, Nội các Học sĩ Nhậm Lan
Chi đi tuyên dụ An Nam, đại lược rằng:
“Vương nay tự hối cải
việc mê muội, lời lẽ kính cẩn, nên Trẫm đặc phái ân riêng, lập tức đem 40 lí đất
ngoài tấn Mã Bá ban cho quốc vương giữ gìn đời đời.”
Lại dụ Ngạc Nhĩ Thái rằng:
“Trẫm đã gia ân ngoại
phiên, cũng nên xem xét ý dân. Nhân dân trong 40 lí ấy nếu có nguyện vọng dời
vào nội địa, thì cấp tiền bố trí ở Vân Nam, chớ để cơ nhỡ. Ai có nguyện vọng sống
ở ngoại phiên thuộc quản hạt của An Nam, cũng đồng ý cho tiện.”
Tháng 11 năm thứ 11 (1733), Lê Duy Đào hoăng, vương tự tử
Duy Hỗ [31] cáo phó, xin tập phong và cống phương vật. Tháng 2 năm thứ 12
(1734), khiển Hàn lâm viện Thị độc Xuân Sơn, Binh khoa Cấp sự trung Lý Học Dụ dụ
tế cố vương Duy Đào, sách phong Duy Hỗ làm An Nam quốc vương.
Năm thứ 13 (1735), Lê Duy Hỗ hoăng, em trai Duy Y tạm
quản việc nước. Năm Càn Long thứ
2 (1737), Duy Y cáo phó, xin tập phong. Khiển Hàn Lâm viện Thị độc Tung Thọ, Tu
soạn Trần Đảm dụ tế cố vương Duy Hỗ, sách phong Duy Y làm An Nam quốc vương. Tháng
9 năm thứ 3 (1738), Duy Y khiển sứ dâng biểu chúc mừng lên ngôi và cống phương
vật.
Tháng
9 năm thứ 9 (1744), Lưỡng Quảng Tổng đốc Mã Nhĩ Thái tâu: “Kẻ gian ở Việt
Tây là Diệp Trân tự ý ra cõi Ngoại Di, dụ dỗ làm phỉ. Dân đói ở An Nam chạy vào
các xứ Ninh Minh.” Hoàng đế mệnh Vân Nam, Quảng Đông kiểm tra
nghiêm các quan ải tiếp giới An Nam, chớ để sinh chuyện. Lưỡng Quảng Tổng đốc
sau là Mã Nhi Thái và Quảng Tây Thự phủ Thác Dung, Đề đốc Đậu Bân dâng tấu nói:
“Các ải Bản Mông ở thổ động Thiên Long thuộc phủ Nam Ninh, các ải Xuyên
Hoang ở thổ châu Tư Lăng thuộc phủ Thái Bình, các ải Hạ Thủ ở thổ châu Hạ Lôi
thuộc phủ Trấn Nam, tổng cộng hơn 30 cửa khẩu đều nằm sát An Nam. Nên đắp đá làm tường,
phát thêm lính đóng, các thổ ty quản lĩnh lính thổ dũng [15] chặn nơi hiểm để
tuần giữ, đồng thời sắc quan địa phương vào các tháng mùa đông hằng năm phải
tra xét sửa chữa rồi thông báo lại. Vùng Khu Lư của An Nam là nơi hàng
hóa tập trung, nằm gần cửa ải nhất. Việc ra vào ải trước kia ngăn cấm, nếu mở
thì thực tiện cho dân buôn. Nên đặt Khách trưởng [16] kiểm kê dân buôn qua
lại, đồng thời bắt quan địa phương tra xét cẩn thận. Còn hai cửa quan Bình Nhi,
Thủy Khẩu thông với các đất Thái Nguyên, Mục Mã, nên thiết lập dây sắt chặn
ngang sông, cứ năm ngày, mười ngày mở một lần để thông thương.” [Triều
đình] đồng ý.
Ban đầu, châu Tư Lăng ở Quảng Tây tiếp giáp với An Nam,
Tuần phủ Thư Nhạ xin trồng tre để ngăn vượt lậu. Thổ mục ở Bằng Tường, Tư Lăng
có kẻ thừa cơ xâm lấn đất An Nam, người Giao không chịu nên tranh giành kéo
dài. Năm thứ 16 (1751), Tổng đốc Tô Xương tâu lên. Hoàng đế dụ Tư Nhạ và giao
xuống bộ bàn xét.
Bọn phỉ người Dao ở An Nam là Bàn Đạo Kiềm, Đặng Thành Ngọc
mưu loạn, làm hoàng bào, hoàng kỳ, ấn gỗ, câu kết dân Di nội địa là Hà Khánh Liệt,
rải trát chiêu dụ phỉ, mưu tấn công các xứ Đô Long, An Bắc, Nghi Kinh.
Binh mục An Nam dò ra, bắt Hà Khánh Liệt, nên bọn Bàn Đạo Kiềm trốn vào trong
núi. Năm thứ 19 (1754), đầu mục sông Bát Bảo ở An Nam là Hoàng Quốc Trân dụ bắt
Bàn Đạo Kiềm, Đặng Thành Ngọc. Vân Quý Tổng đốc Ngạc Sắc dò hỏi được, tâu xin
khép theo chính pháp.
Ban đầu, thổ phỉ Quảng Đông là Lý Văn Quang cùng thổ hào
Thuận Hóa là Nguyễn Tính mưu chiếm cứ các xứ Lộc Lại, Thông Nỉ [17] làm loạn,
quan người Phiên bắt trói hạ ngục. Năm thứ 21 (1756), đóng cũi giải bọn Lý Văn
Quang 16 người đến Phúc Kiến. Mân Chiết Tổng đốc Khách Nhĩ Cát Thiện tâu nói: “An
Nam xứ hẹp cõi Man, không dám tự tiện trừng phạt Lý Văn Quang, nên giải đến để
xin tỏ rõ lòng hoài phục đầy đủ. Nên khép bọn Lý Văn Quang theo lệ giao kết với
nước ngoài, xử trí có phân biệt.” Đồng ý.
Tháng 6 năm thứ 22 (1757), thuyền Phiên của An Nam lệch
gió, trôi dạt đến tấn Vĩnh Ninh. Phát binh thủ hộ, cấp tiền đưa về, đồng
thời lúc về trả hết quân giới bị thu giữ của họ. Hoàng đế dụ: “Việc thu khí
giới cất kho rất không đúng sự thể. Nên ban dụ cho quan đề trấn [18] ven
biển được biết.”
Năm thứ 25 (1760), Mân Chiết Tổng đốc Ái Tất Đạt tâu rằng:
“Thổ phỉ ở biên giới An Nam cùng đầu mục người Giao là Tô Do gây nạn, lẻn
vào hai trại Man Trác, Mã Lộc cướp bóc gây sự. Đã bảo quốc vương nước ấy bắt giải.”
Hoàng đế thấy ngày thường tuần phòng không nghiêm, đến lúc truy bắt thì bất lực,
nên quở trách.
Năm thứ 26 (1761), Lê Duy Y hoăng, vương tự tử Duy Đoan cáo phó, xin tập phong. Khiển Hàn lâm viện Thị độc Đức Bảo, Đại lý tự Thiếu
khanh Cố Nhữ Tu dụ tế cố vương Duy Y, sách phong Duy Đoan làm An Nam quốc
vương. Duy Đoan muốn dùng lễ năm bái thờ trời của nước mình để nhận phong. Bọn
Đức Bảo không chịu, bắt làm theo nghi thức, thì mới xong lễ. Cố Nhữ Tu khi xuất
cảnh thấy nghi tiết đón rước của An Nam vương chưa chu đáo nên gửi thư trách cứ.
Quảng Tây Tuần phủ Hùng Học Bằng báo lên, nên Nhữ Tu bị cách chức. Tháng 3 năm
thứ 27 (1762), Hoàng đế dụ lễ thần rằng: “An Nam đời đời là thuộc quốc, phàm
khi gặp sứ triều đình sách phong đến nước mình thì tự ứng tuân hành lễ ba quỳ chín
khấu. Nhưng quốc vương quen nhờn nếp hủ lậu của nước nhỏ, bàn bạc nghi thức bái
quỳ với sứ sách phong. Đức Bảo, Cố Nhữ Tu chỉ rõ thể lệ, cuối cùng mới tuân
theo. Ngoại Phiên không am hiểu thể chế thì bồi thần sang đấy nên tuyên dụ rõ.
Về sau có việc sách phong An Nam thì phải đem điển lễ và nghi tiết bái quỳ trước
sau báo cho chính, phó sứ, lệnh họ vĩnh viễn tuân thủ, đặt làm lệnh.”
Năm thứ 34 (1769), hậu duệ họ Mạc ở An Nam là Hoàng Công
Toản [19] sống tại trại Mãnh Thiên nước Nam Chưởng, bị họ Lê bức ép
nên đem gia thuộc đến nương nhờ. Duy Đoan xin trả về xử trí. [Triều đình] gửi hịch
quở trách.
Năm thứ 43 (1778), An Nam giải bọn phỉ chạy trốn đến cửa
quan. Ban Duy Đoan tấm đoạn. Năm thứ 44
(1779), Duy Đoan khiển sứ tạ ơn, cống phương vật. Hoàng đế mệnh tiếp nhận, giảm
số đồ cống chính xuống một nửa, đồng thời mệnh từ nay về sau khi dâng biểu tấu giãi
bày hay tạ ơn thì chớ chuẩn bị lễ mọn. Tháng 5, dụ Lễ bộ: “Năm nay cống sứ
nước An Nam đến kinh, thì mệnh một viên đường quan [20] đến Nhiệt Hà báo tin.”
Năm
thứ 49 (1784), Hoàng đế tuần du phương nam, bồi thần An Nam là bọn Hoàng Trọng
Chính, Lê Hữu Dung, Nguyễn Đường nghênh đón gần ngoài cửa nam thành. Ban cho tiền
lụa có khác nhau, và đặc cách ban quốc vương tấm biển “Nam Giao bình hàn” [21].
Năm
thứ 51 (1786), họ Nguyễn ở An Nam có biến. Ban đầu, vào thời Gia Tĩnh triều
Minh (1521-1567), An Nam vương Lê Duy Đàm phục quốc, thực ra là nhờ sức của họ Trịnh, họ Nguyễn. Từ đấy [Trịnh, Nguyễn] đời
đời làm tả, hữu phụ chính. Về sau Hữu phụ chính thừa cơ họ Nguyễn chết, con còn thơ ấu, nên kiêm luôn chức Tả phụ chính để nắm
việc nước, rồi đẩy họ Nguyễn đến Thuận Hóa, gọi là Quảng Nam vương. Nguyễn, Trịnh
nhiều đời nuôi thù dấy binh. Đến Lê Duy Đoan thì quyền càng giảm đi, chỉ giữ lấy
phủ của mình. Phụ chính Trịnh Đống bèn giết thế tử, cướp ấn
vàng, mưu soán nước; nhưng vì sợ thế mạnh của Quảng Nam nên dụ thổ tù Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ cùng tấn công Quảng Nam vương, diệt Quảng Nam vương ở Phú
Xuân. Nguyễn Huệ tự làm Thái Đức vương [22],
Trịnh Đống tự làm Trịnh Tĩnh vương, hai bên không phạm nhau, Duy Đoan chẳng hay
gì.
Nơi
đóng đô của An Nam là Đông Kinh, tức Giao Châu xưa, trị sở của An Nam Đô hộ thời
Đường; nhưng lấy hai đạo Quảng Nam, Thuận Hóa làm Tây Kinh, tức đất Nhật Nam, Cửu
Chân xưa. Nơi Lê Duy Đàm khởi binh cách Đông Kinh một cửa biển, nhiều đời bị họ
Nguyễn ở Quảng Nam chiếm cứ, binh mạnh hơn An Nam. Đến nay Trịnh Đống chết,
Nguyễn Huệ thấy họ Trịnh nắm nước nhưng lòng người
không theo, bèn lấy danh nghĩa trừ họ Trịnh để công phá Lê thành, diệt con trai Trịnh Đống
là Trịnh Tông, nên họ Nguyễn lại nắm nước. Duy Đoan lấy hai
kinh đô ban thưởng, lại gả con gái cho.
Năm
thứ 52 (1787), Duy Đoan mất, tự tôn Duy Kỳ lập. Nguyễn Huệ lấy voi chở hết châu báu về Quảng Nam, sai bề tôi họ Trịnh là Cống Chỉnh ở
lại trấn giữ đô thành. Cống Chỉnh muốn phù Lê chống Nguyễn, bèn đem mệnh của
vương để cầm binh đoạt lại 50 con voi, mà Nguyễn Nhạc ở Quảng Nam cũng đoạt xe
hàng của Huệ. Nguyễn Huệ về trị thành trì ở Phú Xuân, sai tướng Nguyễn Nhậm đem 10.000 binh tấn công Cống Chỉnh ở quốc
đô. Chỉnh chết trận, Duy Kỳ chạy trốn. Nguyễn Nhậm bèn chiếm cứ Đông Kinh, giữ
nơi hiểm yếu bốn bề, có ý muốn tự làm vương.
Mùa
hè năm thứ 53 (1788), Nguyễn Huệ lại đem binh giết Nguyễn Nhậm ở Đông Kinh, rồi
xin Duy Kỳ phục vị. Duy Kỳ biết là khó lường, không dám ra mặt. Huệ biết lòng
dân không theo nên phá hủy hết vương cung, chở trai gái, ngọc lụa bằng thuyền về Phú Xuân, để
lại 3.000 binh giữ Đông Kinh. Có tên Cao Bằng phủ Đốc [đồng] Nguyễn Huy Túc hộ
tống mẹ, vợ và tông tộc của Duy Kỳ 200 người theo đường Cao Bằng lên thuyền chạy
xa, đến khe suối Bác Thẩm ở biên giới châu Long phủ Thái Bình ở Quảng Tây thì
liều chết lội nước qua bờ bắc, số không kịp vượt sông bị quân truy đuổi giết cả. Lưỡng Quảng Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, Quảng Tây
Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh đem đầu đuôi báo lên, lại nói: “Giữ lại [họ Lê] hay
cho [Nguyễn Huệ] đoạt, chỉ có Hoàng thượng ra mệnh được.” Hoàng đế thấy họ
Lê giữ phên dậu dâng lễ cống hơn trăm năm, nên xuất quân hỏi tội để hưng nước
đã diệt, nối họ đã đứt. Trước hết bố trí nhà cho họ ở Nam Ninh, khiển bồi thần
Lê Hồi, Nguyễn Đình Mai về nước, mật báo tự tôn.
Cương
vực An Nam bấy giờ đông kề biển, tây tiếp giáp Lão Qua, nam cách Chiêm Thành một
cửa biển, bắc liền Quảng Tây, Vân Nam. Có 22 phủ, trong đấy 2 phủ là nơi ở của
thổ ty, thực tế chỉ có 20 phủ, cộng lại chia làm 13 đạo. Các đạo lúc ấy chưa mất
[vào tay Nguyễn
Huệ] gồm đạo Thanh Hóa 4 phủ 15 huyện, đạo
Tuyên Quang 3 châu 1 huyện, đạo Hưng Hóa 10 châu 2 huyện. Các đạo miền trên
chưa mất, miền dưới đã mất gồm đạo An Bang 4 phủ 12 huyện, đạo Sơn Tây 5 phủ 24
huyện, đạo Kinh Bắc 4 phủ 20 huyện, đạo Thái Nguyên 3 châu 8 huyện. Các đạo miền
trên đã mất, miền dưới chưa mất gồm đạo Sơn Nam 9 phủ 36 huyện, đạo Hải Dương 4
phủ 19 huyện. Chỉ có 2 đạo Quảng Nam, Thuận Hóa vốn là sào huyệt của tù trưởng
họ Nguyễn. [Nguyễn Huệ] lại chiếm 1 phủ 4 châu ở đạo Cao Bằng, 1 phủ 7 huyện ở
đạo Lạng Sơn để che chắn nội địa.
Hoàng
đế mệnh Tôn Sĩ Nghị ra hịch cho các lộ An Nam, chỉ rõ thuận nghịch để sớm quay
về chính nghĩa. Bấy giờ em trai Duy Kỳ là Duy Do, Duy Chỉ đều ra ngoài lánh nạn:
Duy Do chết ở thành Tuyên Quang, Duy Chỉ theo đường xưởng Ba Bồng ở Kinh Bắc đến
nương nhờ. Tôn Sĩ Nghị thấy Duy Chỉ có tài, muốn lệnh tạm quản việc nước. Hoàng
đế lo anh em hắn ngày sau hiềm nghi nên không đồng ý, rồi lệnh Sầm Nghi Đống ở
Điền Châu hộ tống Duy Chỉ rời cửa khẩu, hiệu triệu
nghĩa binh. Gặp lúc bọn Nguyễn Đình Mai đem thư đáp của tự tôn đến, xin chuyển
tấu. Vì thế thổ ty và quan binh các châu chưa bị mất ở nước An Nam tranh nhau bắt
trói ngụy đảng, dâng địa đồ, rồi bọn nghĩa dũng ở các xưởng ngoài cửa quan cũng
đều xin làm đoàn luyện [23], mong được
dẫn đường.
Bấy
giờ anh em Nguyễn Huệ cũng [sai người] khấu đầu ở cửa quan xin cống, đem biểu của
thần dân trong nước đến, nói Lê Duy Kỳ không biết còn hay mất, xin lập con trai
cố vương Duy Đoan là “ông hoàng ty” Duy Cận [24]
làm chủ việc nước, đồng thời đón mẹ và phi của Duy Kỳ về nước. Hoàng đế biết
Nguyễn Huệ khinh Duy Cận ngu hèn dễ quản, muốn dùng kế gian xảo hoãn quân, nên mệnh
Tôn Sĩ Nghi trách cứ nghiêm.
Đường
tiến binh sang An Nam có ba: một từ Trấn Nam quan ở Quảng Tây là đường chính; một
từ châu Khâm ở Quảng Đông vượt biển, qua núi Ô Lôi đến phủ Hải Đông của An Nam,
là đường quân thủy thời Đường về trước dùng; một theo thác Liên Hoa huyện Mông Tự ở Vân Nam, đi đường bộ đến sông Thao ở An Nam, là đường của Mộc Thạnh thời
Minh. Tôn Sĩ Nghị và Đề đốc Hứa Thế Hanh cầm 10.000 binh Lưỡng Quảng rời cửa ải, đem 8.000 tiến thẳng đến vương kinh, để 2.000 đóng lại Lạng Sơn làm thanh viện. Vân
Nam Đề đốc Ô Đại Kinh đem 8.000 binh đi đường Mã Bạch quan ở phủ Khai Hóa, qua
sông Đổ Chú, vào biên giới Giao Chỉ được hơn 1.000 lí là đến trấn Tuyên Hóa, so với lối cũ của Mộc
Thạch cũng gần giống. Vân Nam Đề đốc Phú Cương xin đi, nhưng Hoàng đế thấy một
quân không thể có hai soái, nên mệnh đóng ở Đô Long ngoài cửa quan đôn đốc chở
lương.
Cuối
tháng 10, quân Quảng Đông rời Trấn Nam quan. Xuống chiếu rằng An Nam sau cơn loạn
mỏi mệt không cung ứng nổi, việc chở lương nên theo hai đường nội địa Vân Nam, Quảng
Đông, đặt hơn 70 đài trạm, những nơi đi qua không mảy may xâm phạm. Tôn Sĩ Nghị,
Hứa Thế Hanh theo đường Lạng Sơn chia lối tiến; Tổng binh Thượng Duy Thăng, Phó
tướng Khánh Thành cầm binh Quảng Tây; Tổng binh Trương Triều Long, Lý Hóa Long
cầm binh Quảng Đông. Bấy giờ binh sĩ nghĩa dũng đều đi theo, nói phao đại binh
đến mười vạn. Quân giặc giữ các ải nghe phong thanh đã chạy trốn, chỉ chặn nơi
hiểm yếu ở Tam Giang để chống cự.
Ngày
13 tháng 11, Thượng Duy Thăng, Khánh Thành cầm hơn 1.000 binh, canh năm đến
sông Thọ Xương. Giặc lui về giữ bờ nam, quân ta thừa cơ tiến lên. Cầu phao gãy, nên đều cưỡi bè đi thẳng. Bấy
giờ trời sương mù nặng, giặc tự chém giết lẫn nhau, nên quân ta vượt sông được cả,
đại phá chúng. Trương Triều Long cũng phá Trụ Hữu của
giặc. Ngày 15, tiến binh đến sông Thị Cầu. Sông rộng, hơn nữa bờ nam tựa vào
núi, cao hơn bờ bắc, giặc chiếm cứ chỗ hiểm bày pháo, quân ta không đóng bè được.
Các quân thấy thế sông quanh co, giặc không nhìn xa được, bèn giả vờ chở tre gỗ
đóng cầu phao để tỏ ra là sẽ vượt, nhưng ngầm đem 2.000 binh đi 20 lí lên thượng du nơi nước chảy chậm, trong đêm
dùng thuyền nhỏ vượt qua. Ngày 17, cưỡi bè cập bờ, giằng co với chúng. Gặp lúc binh ở thượng du đánh vào sau lưng
chúng, thừa thế cao hô lớn đánh xuống, tiếng vang núi rừng. Giặc
không biết quân nhà vua từ đâu xuống, đều tan vỡ. Ngày 19, đến sông Phú Lương. Sông nằm ở
nơi cửa ngõ của nước. Giặc chặt hết tre gỗ ven sông, gom thuyền về bờ kia.
Nhưng trông thấy trận thế giặc không nghiêm chỉnh, biết chúng không có chí vững,
bèn tìm thuyền nhỏ ở chỗ bờ xa, trong đêm chở hơn 100 lính đến sông, lại đoạt
được hơn 30 chiếc thuyền nhỏ, lần lượt đưa 2.000 binh qua, chia nhau quấy đảo
doanh trại giặc. Giặc trong chiều tối không biết [quân ta] nhiều ít nên tan vỡ.
Đốt hơn 10 chiếc thuyền của chúng,bắt hàng chục Tổng binh, hầu, bá. Sáng hôm
sau, đại quân qua sông hết. Tông tộc, bách tính họ Lê ra phủ phục bên trái đường
nghênh đón. Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh vào thành tuyên úy rồi lại ra. Lũy đất
vòng quanh thành cao không quá mấy thước, bên trên trồng tùng và tre. Ở trong
có hai lớp tường gạch, là nơi ở của quốc vương, cung thất đã bị phá sạch.
Lê Duy Kỳ trốn ở thôn của dân, canh hai đêm ấy mới đến
doanh trại gặp Tôn Sĩ Nghị, cúi đầu chín lần tạ ơn. Báo tin thắng trận [về triều
đình]. Ban đầu, khi quân nhà vua xuất chinh, Hoàng đế lo sau khi việc thành thì
đi lại sách phong tốn nhiều thời gian, khiến quân nhà vua chịu sương gió lâu
bên ngoài, nên mệnh trước cho Lễ bộ đúc ấn, Nội các soạn sách, gửi ở trong
quân. Tôn Sĩ Nghị bèn chọn ngày 22 tuyên chiếu sách phong Lê Duy Kỳ làm An Nam
quốc vương, đồng thời [cho người] phi ngựa báo Tôn Vĩnh Thanh trả gia thuộc của
Duy Kỳ về. Duy Kỳ dâng biểu tạ ơn, xin rằng năm Càn Long thứ 55 (1790) được đến
kinh chúc mừng bát tuần vạn thọ. Hoàng đế mệnh đợi dẹp xong An Nam, Duy Kỳ tự đứng
vững được sẽ cho đến chầu.
Chiến dịch ấy, dân cũ đội ơn họ Lê và quân nghĩa dũng các
xưởng đi trước dẫn đường, mà bọn Hứa Thế Thanh, Trương Triều Long mới từ Đài
Loan lập công trở về, đều là tướng thiện chiến, nên đem hơn vạn binh mà đuổi xa
tiến sau, chưa đầy tháng đã lấy lại kinh đô, bấy giờ binh Vân Nam của Ô Đại
Kinh vẫn chưa đến vậy. Xuống chiếu phong Tôn Sĩ Nghị làm Mưu Dũng công nhất đẳng,
Hứa Thế Hanh làm tử tước nhất đẳng, các tướng sĩ được ban thưởng có khác nhau.
Bấy giờ Nguyễn Huệ đã trốn về Phú Xuân, Tôn Sĩ Nghị mưu
đóng thuyền truy đánh. Tôn Vĩnh Thanh tâu rằng: “Quảng Nam cách kinh đô nhà
Lê 2.000 lí, phải dùng binh vạn người, đặt trạm lương và đem vận phu mười vạn,
cũng bằng từ Trấn Nam quan đến Lê thành.” Hoàng đế thấy An Nam bị tàn phá sạch
trơn, hơn nữa họ Lê nhiều đời yếu đuối, việc hưng phế ắt chưa đến tận số; mà đường
xa khó chở lương, không lí gì làm nhọc quân lùng bắt lâu ngày, nên xuống chiếu rút
quân về cửa quan ngay. Nhưng Tôn Sĩ Nghị ham bắt họ Nguyễn để lập công, không rút
quân ngay; lại khinh địch mà không đặt phòng bị, sai thổ quân nghĩa dũng đi tản
mác, treo quân ở Lê thành hơn một tháng. Gián điệp họ Nguyễn biết được hư thực,
cuối năm dốc lực ra đánh úp quốc đô, nói dối là đến hàng. Bọn Sĩ Nghị tin lời,
ngồi yên không hay biết gì.
Mồng một tháng giêng năm thứ 54 (1789), trong quân bày rượu
cất nhạc, đến đêm bỗng có tin quân Nguyễn đến mới hoảng hốt chống địch. Giặc
đem voi chở pháo lớn xông vào quân ta, lính ít không địch nổi, đêm tối trong
quân tự giày xéo nhau. Lê Duy Kỳ đem cả nhà trốn trước, quân Vân Nam nghe tiếng
pháo cũng rút chạy. Tôn Sĩ Nghị qua được sông Phú Lương liền chặt cầu phao đoạn
hậu, do đó quân ở bờ sông, Đề đốc Hứa Thế Thanh, Tổng binh Trương Triều Long và
quan binh, phu dịch hơn vạn người đều chết đuối cả. Bấy giờ Tôn Sĩ Nghị chạy về
Trấn Nam [quan], vứt bỏ hết lương thực, khí giới hàng chục vạn ngoài cửa quan,
số binh mã trở về chưa đầy một nửa. Quân Vân Nam nhờ bề tôi họ Lê là Hoàng Văn
Thông dẫn đường nên quay về toàn vẹn. Mẹ con Lê Duy Kỳ lại đến nương nhờ. Việc
tâu lên, hoàng đế thấy Sĩ Nghị không sớm rút quân mà lại ngạo mạn không trù bị,
đến nỗi làm mất uy nước, tổn thất tướng sĩ, nên cách chức, gọi đến kinh đợi xử
tội, rồi lấy Phúc Khang An thay thế.
Nguyễn Huệ tự biết mình rước họa, sợ quân nhà vua đánh lần
nữa, lại đang dấy binh với Xiêm La, lo Xiêm La thừa cơ đánh sau lưng. Vì thế
[sai người] khấu đầu ở cửa quan tạ tội xin hàng, đổi tên thành Nguyễn Quang
Bình, khiển con của anh trai là Quang Hiển đem biểu vào cống, khẩn nài xin ban
phong hiệu. Đại lược nói giữ Quảng Nam đã chín đời, là địch quốc với An Nam,
không phải vua tôi. Hơn nữa người Man tự tranh giành, không dám kháng cự Trung
Quốc, xin năm tới đích thân vào chầu ở kinh sư, đồng thời dựng đàn xây miếu cho
tướng sĩ chết ở trong nước, xin ban quan hàm thụy hiệu, lập chủ thờ cúng. Lại
nghe tin cống sứ Xiêm La vào kinh, sợ bị nước ấy vu cáo nên xin Thiên triều chớ
nghe lời họ. Phúc Khang An đem đầu đuôi báo lên.
Hoàng đế thấy Duy Kỳ lại bỏ nước mình, đến sách ấn cũng
không giữ được, là trời đã chán họ Lê, không thể tự tại; mà Nguyễn Quang Bình
đã xin đích thân vào chầu, không giống như Mạc, Lê đời trước chỉ cống người
vàng thế thân. Hơn nữa An Nam từ đời Ngũ Quý trở đi Khúc, Kiều, Ngô, Đinh, Lý,
Trần, Lê, Mạc cắn xé lẫn nhau; đời trước từng đặt quận huyện ở đất này nhưng phản
trắc vô thường, bấy giờ là mối lo ở phương nam. Thế nên chấp thuận thỉnh cầu, lập
tức phong Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương. Sách phong viết:
“Trẫm ban vương hóa cho
phương xa, phạt kẻ có tội nhưng tha người quay về; phong chư hầu để kính giữ,
vì sợ uy trời mà phụng sự nước lớn. Xét lòng thành của cõi hoang, bỏ qua chuyện
đã rồi; thưởng ân điển với thuộc quốc, cho phép được đổi mới. Đón nhận sủng mệnh
ban xuống, gắng sức noi theo thi hành. An Nam đất đai nóng bức, mở cương vực mười
ba đạo; lê dân thần sự thiên triều, tu chức cống hơn trăm năm. Thường đến chầu
vua, xưa thuộc bờ cõi. Từ khi gặp nạn thì lưu li, nên mới suy vi mà cầu cứu. Đã
dấy quân phục quốc, mong gánh vác cơ đồ. Nào ngờ vứt ấn bỏ thành, trước nay yếu
đuối nên đến hồi cũng thất thủ. Hẳn lòng trời chán kẻ bạc đức, khiến vận nước
cuối cùng đắm chìm.
Nguyễn Quang Bình ngươi nổi
lên từ Tây Sơn, xa xôi cõi nam, trước vốn không có chức phận vua tôi, mà dần nảy
sinh mối thù hôn thú. Dấy hấn với nhau, tình chẳng còn vững. Bỗng chốc chống cự,
tuy không cố ý nhưng khó giấu lỗi trước; hối cải rửa tội, nguyện sửa đổi mà tự
giày vò bản thân. Dâng biểu cầu xin, sai trước cháu trai tới tỏ lòng; hiến lên
vật báu, năm sau tự mình vào chúc thọ. Chẳng phải trông chờ được phong tước để
hưởng vinh hiển, chỉ vì muốn dân chúng bên dưới có chỗ quây quần. Huống hồ kẻ
làm vua không phân biệt người dân, đâu câu nệ ở nơi chốn nào; hơn nữa người
sinh ra thì phải có chăn dắt, thế nên giữ yên nước nhà ngươi. Vì vậy ban bố ân
sủng, để làm chỗ dựa vỗ về. Nay
phong ngươi làm An Nam quốc vương, ban cho ấn mới.
Ô hô! Có hưng thì có diệt, Thiên tử chỉ thuận
trời mà làm; không nghi thì không lo, quốc vương cùng cả nước nghe lấy. Vương
nên gắng giữ giấy son, một lòng nơm nớp, cố giữ cho con cháu truyền nối lâu
dài, chớ để đất nước rơi vào tay tộc khác. Tận tâm cần mẫn sớm tối, chớ được
buông thả việc nước; tôn kính thờ phụng minh uy, để mãi thấm nhuần ân điển.
Khâm tai, chớ quên mệnh Trẫm!”
Lê Duy Kỳ được thưởng hàm tam phẩm, lệnh
đi cùng thuộc hạ, người nhà đến kinh, cho về dưới cờ quân Hán [25], rồi lấy Duy Kỳ làm Tá lĩnh [26]. Lại lệnh Nguyễn Quang Bình tìm kiếm thân thuộc
của Duy Kỳ, hộ tống đến cửa quan. Số người Di tây nam trước kia an trí ở nội địa,
có ai còn nhớ đất cũ [27] cũng lệnh Nguyễn
Quang Bình vỗ về cẩn thận để tỏ lòng thương yêu.
Năm
thứ 55 (1790), Nguyễn Quang Bình đến chầu chúc mừng, giữa đường phong con trưởng
của hắn Nguyễn Quang Toản làm thế tử. Tháng 7, vào chầu ở sơn trang Nhiệt Hà,
ban cho ở dưới thân vương, trên quận vương, ban chương thơ ngự chế, nhận mũ đai
rồi về. Kỳ thực Quang Bình sai em trai mạo danh đến, Quang Bình chưa dám tự
mình đi, quỷ quyệt đến như vậy.
Năm
thứ 56 (1791), [Quang Bình] đánh bại quân của Lê Duy Hôn [28] và nước Vạn Tượng, dâng tin thắng trận. Hoàng đế ưu ái thưởng
cho. Năm thứ 57 (1792), bàn định hạn cống của An Nam: lệ cũ ba năm cống một lần
thì đổi thành hai năm, sáu
năm khiển sứ đến triều một lượt thì đổi thành bốn năm.
Tháng
9, Nguyễn Quang Bình bệnh mất tại Nghĩa An. Thế
tử Nguyễn Quang Toản tạm quản việc nước, cáo phó lên [triều đình]. Tháng giêng
năm thứ 58 (1793), khiển Quảng Tây Án sát sứ Thành Lâm dụ tế, gia thụy là Trung
Thuần, đồng thời ban bài thơ ngự chế, sai khắc lên bia mộ để biểu dương lòng
cung thuận. Phong Quang Toản làm An Nam quốc vương. Hoàng đế thấy nước Nguyễn mới
dựng, lòng người chưa định, Nguyễn Quang Toản còn thơ ấu, hơn nữa Nguyễn Nhạc vẫn
còn ở Quảng Nam, Ngô Văn Sở cầm binh quyền lâu ngày, chúa nhỏ tuổi mà nước ngờ
vực nhau nên lo có biến, đặc cách điều Phúc Khang An đốc thúc Vân Nam, Quý Châu
chuẩn bị ở biên giới, đồng thời lệnh Thành Lâm bí mật dò xét nước này. Thành
Lâm về báo việc nước đã bước đầu định, bèn thôi.
Tháng
8, Thự Lưỡng Quảng Tổng đốc Quách Thế Huân tâu rằng An Nam lập thêm chợ Hoa
Sơn. Trước kia việc buôn bán với An Nam thì thương nhân ở hai cửa quan Bình Nhi,
Thủy Khẩu sang xứ Mục Mã trấn Cao Bằng nước này mở chợ; thương nhân theo cửa ải
sang xứ Khu Lư trấn Lạng Sơn mở chợ, chia đặt hai hiệu Thái Hòa, Phong Thịnh, đồng
thời đặt trưởng kho, trưởng chợ mỗi chức một người, Bảo hộ, Giám đương mỗi chức
một viên. Nhưng từ ải Bình Nhi đi buôn ắt phải theo đường thủy
đến Hoa Sơn trước, lộ trình chỉ hơn 200 lí. Hơn nữa các
thôn trang phụ cận Hoa Sơn đông đúc, đến nay đặt thêm cửa hàng thì các viên trưởng
chợ, giám đương trong ngạch ở đây phải phái đến Khu Lư. Trong dân khách có kẻ theo đường bộ đến
Mục Mã trước, nên đồng ý cho tiện.
Năm
Gia Khánh thứ 1 (1796), Phúc Châu tướng quân Khôi Luân, Lưỡng Quảng Tổng đốc
Cát Khánh trước sau tâu rằng bắt được cướp biển đi thuyền ô tào [29], có Tổng binh của An Nam và các thứ sắc mệnh,
ấn tín phong tước. Ban đầu, họ Nguyễn chiếm Quảng Nam, lấy cảng Thuận Hóa làm cửa
ngõ, đều nằm gần Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm La, tây nam kề biển. Có thuyền nào
trôi dạt ra biển, họ Nguyễn liền thu hết hàng hóa, gặp thương thuyền Trung Quốc
cũng đánh thuế đến một nửa, nên thương thuyền các nước Hồng Mao, Chiêm Lạp,
Xiêm La đều ngại đến vịnh Quảng Nam. Cha con Nguyễn Quang Bình đã đem binh soán
nước, quốc dụng hư hao, thương thuyền không đến, nên khiển hơn trăm chiếc thuyền
ô tào và 12 tên Tổng binh, giả vờ lo liệu quân lương để chiêu mộ nhiều kẻ vong
mệnh ở ven biển Trung Quốc, nhử bằng quan tước, ban cho khí giới thuyền bè, sai
dẫn đường vào cướp các tỉnh Mân, Việt, Giang, Chiết.
Bấy
giờ quân Chiết Giang phòng ngự cướp biển, gặp mưa gió lớn, giữa lúc mưa có ánh
lửa đánh vào thuyền giặc, đều tan nát cả. Tham tướng Lý Thành Long cầm binh vượt
biển thu giữ pháo giặc, đồng thời thu sắc văn của An Nam và 4 chiếc ấn đồng tổng
binh. Sắc xưng “Sai tào đội Đại thống binh Tiến Lộc hầu Luân Quý Lợi”, mà Giáo
dụ Vương Minh Kha bắt được 3 tên giặc, một giả vờ bị câm, tên là Vương Quý Lợi,
Tấn và Văn, tức là Luân Quý Lợi vậy. Đồng thời Mân Trung bắt được đĩnh tặc [30] là Tổng binh Phạm Quang Hy của An Nam, khai rằng:
“Sau khi Nguyễn Quang Bình thay họ Lê, Quang Bình chết, truyền ngôi cho con
trai Quang Toản. Bấy giờ dấy binh với họ Nguyễn cũ mà quân phí lại không đủ cấp,
nên Tổng đốc Trần Bảo Ngọc chiêu tập thuyền đĩnh ở Quảng Đông đi cướp ngoài biển.”
Thế rồi Tổng binh Hoàng Văn Hải của An Nam có hiềm khích với quan giặc Ngũ Tồn
Thất, nên đem hai chiếc thuyền đĩnh nương nhờ ở Mân. Nay Mân Trung dùng cách thức
ấy đóng thuyền.
Tên
Luân Quý Lợi là người Trừng Hải ở Quảng Đông, nương nhờ An Nam, đánh nhau với họ
Nguyễn cũ có công, được phong hầu. Khi đi tuần biển, kết giao riêng với bọn cướp
ở Phúc Kiến rồi đến Phúc Kiến, Chiết Giang cướp bóc. Thuyền đĩnh An Nam 76 chiếc
phân làm các chi tiền, trung, hậu, Luân Quý Lợi nắm hậu chi. Bốn chiếc ấn đồng,
Quý Lợi tự đeo một, còn ba ấn cho ba Tổng binh là Diệu, Nam và Kim đeo. Diệu đã
bị bắt chém, Nam và Kim ắt đều chết đuối ở biển. Tuần phủ Nguyễn Nguyên phanh
thây Quý Lợi, rồi đem lời cung vào tâu. Hoàng đế mệnh Quân cơ đại thần Tự Ký
làm Lưỡng Quảng Tổng đốc, gửi thư cho An Nam quốc vương.
Mùa
đông, tháng 12, Nguyễn Quang Toản trình phúc đáp, đại lược rằng: “Tiểu phiên
nhiều đời đội ơn Thiên triều, nhưng
cách trở xa xôi không đền đáp được, nên lo giữ bờ cõi cẩn thận để mãi làm phên dậu. Chỉ có đất Nông Nại [31] ở
ven biển cực nam bản quốc, có tên đầu sỏ giặc Nguyễn Chủng chiếm trộm đất ấy, tụ họp bọn cướp tề ngôi [32], nhiều lần gây họa ngoài biển. Bản quốc chỉnh
đốn hải phòng, thu nhận khách đi thuyền để tránh đảng giặc, lại trợ giúp việc
chèo lái trên biển. Tên Luân Quý Lợi trước sống ở bản quốc, cùng bạn đi buôn làm
tuần phòng. Chẳng ngờ y ôm ấp lòng gây họa, lừa dối tiểu phiên, dám hẹn ngầm với
thuyền phỉ chạy ra ngoài biển hoành hành cướp bóc, lại tự ý tạo ấn trát, mang lời
dụ dỗ. Tội tình trọng đại, pháp luật thực không thể dung. Tiểu phiên không thấy
trước được lòng gian nên lơ đãng quản thúc. Ngẩng đầu mong lòng thánh soi xét,
thấu hết lòng thành, răn dạy thêm cho như mặt trời chiếu rõ. Khi đón nhận thánh
dụ, vừa cảm động vừa sợ hãi. Kính cẩn tuân phụng di huấn, giữ yên phên dậu, lệnh
nhân viên tuần biển ở bản quốc cảnh giác thêm nghiêm ngặt, kiểm soát cho chu
đáo, dứt hẳn không dung kết với bọn phỉ hay ra ngoài cõi gây thị phi, đảm bảo
Quế Hải [33] mãi trong sạch, để đáp lại chí đức ôm ấp của
thánh thiên tử. Đấy là những điều đã gắng sức làm vậy.” Hoàng đế thấy quốc vương không biết nên xá
tội.
Năm
thứ 2 (1797), Lưỡng Quảng Tổng đốc tâu rằng An Nam Quốc vương Nguyễn Quang Toản
sai ủy quan biền đinh là bọn Công Tuyết lĩnh binh thuyền bắt giữ bọn cướp Hoàng
Trụ, Trần Lạc hơn 60 tên, giải vào nội địa. Hoàng đế giáng sắc khen thưởng, đồng
thời ban ngọc như ý, gấm thêu mãng xà núi, áo the để tưởng thưởng.
Ban
đầu, Nguyễn Quang Bình đã công diệt Quảng Nam vương Nguyễn Mỗ [34]. Nguyễn Mỗ là con rể Lê vương, vợ là Lê thị
có thai, trốn đến Nông Nại. Nông Nại là cựu đô của Thủy Chân Lạp, tức tỉnh Gia
Định, nay là Tây Cống. Lê thị
sinh con trai tên Nguyễn Phúc Ánh,
tên gốc là Chủng, lẩn trốn trong dân gian. Khi lớn, chạy sang Xiêm La. Xiêm La
vương vốn có thù với Nguyễn Quang Bình, bèn đem em gái gả cho Phúc Ánh, trợ
giúp binh [35]. [Phúc Ánh] tấn công Nông Nại, chiếm được, thế mạnh dần, gọi là “Cựu
Nguyễn”, mà gọi cha con Nguyễn Quang Bình là “Tân Nguyễn”, cũng gọi là “Tây
Nguyễn”. Cựu Nguyễn lấy cớ phục thù để đoạt cựu đô Phú Xuân, bấy giờ là năm Gia
Khánh thứ 4 (1799).
Tháng
11 năm thứ 6 (1801), ngụy Tổng binh Trần Thiên Bảo ở An Nam đem gia quyến vào nương nhờ, mới biết việc An Nam và
Nông Nại dấy binh tranh đoạt. Tháng 8 năm thứ 7 (1802), Nông Nại công thành
Thăng Long, Nguyễn Quang Toản thua chạy rồi bị bắt. Tháng 8, Nguyễn Phúc Ánh
trói bọn Mạc Quan Phù gồm 3 tên giải đến Quảng Đông, đồng thời dâng
sách phong, ấn vàng của Nguyễn Quang Toản thu được lúc đánh lấy Phú Xuân, và dâng
biểu tỏ lòng thành. Bọn Mạc Quan Phù đều là trộm cướp Trung Quốc, được An Nam
chiêu dụ quy thuận, phong làm Đông Hải vương và ngụy chức Tổng binh. Hoàng đế cho
rằng: “Trước kia Nguyễn Quang Bình nạp khoản lên cửa khuyết để nội phụ, ân lễ
đã gia. Khi Nguyễn Quang Toản kế thừa Nam Giao, lại ban sắc mệnh để đời đời trấn
thủ không dứt. Nhưng hắn lại chứa chấp kẻ cướp, hoành hành biển khơi, phụ ơn cắn
lại, thật là quá lắm! Hơn nữa các thứ ấn tín rất trọng, mà đi gấp thì vứt lại để
bỏ trốn, tội không thể tránh! Mệnh Lưỡng Quảng Tổng đốc đến Trấn Nam quan phòng
bị biên giới, đợi Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại toàn cõi An Nam thì báo lên.”
Tháng
12, Nguyễn Phúc Ánh diệt An Nam, khiển sứ vào cống, giãi bày đầu đuôi việc dấy
binh là để phục thù họ Lê đời trước, đồng thời nói nước mình vốn là đất Việt
Thường xưa, nay thôn tính cả An Nam, vì không muốn quên việc trấn thủ nhiều đời
nên xin lấy chữ “Nam Việt” đặt tên nước. Hoàng đế dụ rằng “Nam Việt” bao hàm rất
rộng, đất Lưỡng Quảng ngày nay cũng ở trong ấy, Nguyễn Phúc Ánh dù có toàn An
Nam cũng không quá đất Giao Chỉ xưa, không được lấy “Nam Việt” đặt tên nước.
Năm
thứ 8 (1803), đổi An Nam thành Việt Nam quốc. Tháng 6, mệnh Quảng Tây Án sát sứ
Tề Bố Sâm sang phong Nguyễn Phúc Ánh làm Việt Nam quốc vương. Từ khi Nguyễn
Quang Bình soán ngôi họ Lê đã 19 năm, rồi lại bị diệt bởi Nguyễn Phúc Ánh. Từ đấy
về sau kẻ tu chức cống là con cháu Cựu Nguyễn.
Năm
thứ 9 (1804), cho các viên Tá lĩnh bố trí ở biên giới và người An Nam an trí ở các xứ Giang Ninh, Nhiệt Hà, Trương Gia Khẩu, Phụng Thiên, Hắc Long Giang, Y Lê về nước, ban bạc có khác nhau, đồng thời cho phép
đưa Lê Duy Kỳ về táng.
Năm
thứ 11 (1806), đầu mục trấn Hưng Hóa của An Nam xin lấy đất vùng Lục Mãnh thuộc
phủ Trấn An phụ vào nước ngoài. Ra hịch dụ vương trừng trị hắn.
Người
bà con còn sót của Nguyễn Quang Toản là Nguyễn Như Quyền vào nội địa lánh nạn,
Lưỡng Quảng Tổng đốc Ngô Hùng Quang tâu xin giao trả cho Nguyễn Phúc Ánh. Hoàng
đế nghi hắn thuộc số trốn tránh bắt bớ nên không cho, nhưng cũng không cho ở lại
nội địa.
Năm
thứ 14 (1809), Nguyễn Phúc Ánh khiển quan viên đến Lạng Sơn, mang trả sắc và ấn
phong cho Nam Chưởng quốc vương vào năm Càn Long thứ 60 (1795). Hoàng đế ban
thưởng cho.
Nguyễn
Phúc Ánh có được nước phần lớn nhờ vào binh lực Gia Định, Vĩnh Long, bèn lấy hai
tỉnh làm niên hiệu, gọi là Gia Long. Ở ngôi 17 năm thì hoăng, con trai là Phúc
Kiểu nối dõi. Năm Đạo Quang thứ 1 (1821), khiển Quảng
Tây Án sát sứ Phan Cung Thìn mang sắc và ấn sang phong Nguyễn Phúc Kiểu làm Việt Nam quốc vương.
Năm
thứ 9 (1829), sứ thần Việt Nam xin đổi lối đi cống theo đường thủy vào Quảng
Đông. Các bộ bàn bạc rồi bác bỏ. Năm thứ 19 (1839), Hoàng đế dụ rằng trước nay nước Việt Nam cứ hai
năm cống một lần, cứ bốn năm khiển sứ đến triều một lượt và hợp hai lần cống tiến
dâng chung; về sau đổi thành bốn năm khiển đến cống một lượt, cống vật chiếu
theo số tiến dâng chung hai lần cống để giảm một nửa.
Phúc
Kiểu đổi niên hiệu là Minh Mệnh, ở ngôi 11 năm. Từng đem binh đoạt một dải đất
Hà Tiên của nước Cao Man [36], chia bờ
cõi làm 30 tỉnh: Phú Xuân là quốc đô; 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Nghĩa là Hữu Kỳ;
2 tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình là Tả Kỳ; 9 tỉnh Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa [37],
Biên Hòa, Gia Định, An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, Định Tường là Nam Kỳ; 16 tỉnh
Hà Tĩnh, Hải Dương, Quảng Yên, Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Quảng Bình, Hưng
Hóa, Hà Nội, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Sơn
Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa là Bắc Kỳ. Về sau lại thấy các tỉnh Quảng Trị, Quảng
Nghĩa quá nhỏ nên đổi làm đạo. Cương vực so với các đời trước thì lớn hơn. Chỉ
có miền tây bắc tỉnh Tuyên Quang giáp miền nam phủ Trấn An của Quảng Tây, có
vùng đất tên là châu Bảo Lạc; tù trưởng xứ ấy họ
Nông, là cựu thần họ Lê, vẫn nhớ chúa cũ, không phục vương mới, chỉ là xứ ki mi
của Việt Nam. Con cháu Lê Duy Hôn trốn vào ở sâu trong núi ở Lão Qua, bấy giờ tụ
họp người phục quốc, được gọi là hậu duệ Lê vương. Số con cháu họ Lê còn lại ưa
gây chuyện, nên đều bị an trí ở các tỉnh từ Bình Thuận về nam. [Phúc Kiều] lại
tự chê văn giáo nước mình quê lậu, tâu xin phát cho Khang Hy tự điển. Chọn
kẻ sĩ thì dùng chế độ triều Nguyên, lấy kinh nghĩa, thơ phú để khảo thí.
Năm
Đạo Quang thứ 21 (1840), Nguyễn Phúc Kiểu hoăng, khiển sứ cáo phó. Xuống chiếu
ngưng tiến cống phương vật, mệnh Quảng Tây Án sát sứ Bảo Thanh sang phong con
trai là Phúc Thị làm Việt
Nam quốc vương. Phúc Thị đổi niên hiệu là Thiệu Trị, ở ngôi 7 năm.
Năm
Đạo Quang thứ 28 (1847), [Phúc Thị] hoăng, con trai là Phúc Thời nối
ngôi. Phàm khi sứ triều đình sang sách phong, các đời trước đón tại Hà Nội. Hà
Nội tức Đông Kinh, nơi dựng đô của nước này. Khi Nguyễn Phúc Ánh đoạt nước, thấy
Đông Kinh bị binh đao hủy hoại nhiều, mà tổ tiên mình nhiều đời sống ở Lĩnh
Nam, nên dời đô về tỉnh Phú Xuân, đổi Đông Kinh thành tỉnh Hà Nội. Bấy giờ sứ đi
phong đến nước này vẫn tuân theo lệ trú lại ở đấy. Nguyễn Phúc Thời khi nối
ngôi còn nhỏ tuổi, tâu xin thiên sứ đến quốc đô. Do đó Quảng Tây Án sát sứ Lao
Sùng Quang đến Phú Xuân sách phong.
Năm
thứ 30 (1849), Trịnh Tổ Sâm tâu rằng Việt Nam quốc vương Nguyễn Phúc Thời trước
sau đón nhận di chiếu của Hiếu Hòa Duệ hoàng hậu và Tuyên Tông Thành hoàng đế, đều
xin khiển sứ cung tiến lễ dâng hương, dâng hương phẩm và vật tế; lại đệ trình
biểu văn, cống vật chúc mừng lên ngôi. Hoàng đế dụ rằng tử cung [38] của
Hiếu Hòa Duệ hoàng hậu và Tuyên Tông Thành hoàng đế đều đã đưa vào lăng tẩm, chớ
đi xa dâng hương; phương vật chúc mừng lên ngôi cũng không
cần trình tiến.
Năm
Hàm Phong thứ 2 (1851), bàn luận hạn cống năm tới của nước Việt Nam, thì vào tháng 5 năm Hàm Phong thứ 3 sẽ đến
kinh. Năm thứ 6 (1855), dụ Việt Nam quốc vương Nguyễn Phúc Thời lấy năm Đinh Tỵ
làm hạn cống, trình riêng cho Lao Sùng Quang để tâu xin xem phải tiến dâng vào
tháng nào; hiện tại các tỉnh dụng binh vẫn chưa dẹp xong, việc cống theo lễ của
nước Việt Nam lần này cho hoãn đến lần sau cùng tiến cống chung hai đợt.
Năm
thứ 8 (1857), Pháp Lan Tây đoạt lấy Tây Cống của Việt Nam. Trước kia, cuối thời
Minh có giáo đồ Thiên Chúa người Pháp Lan Tây đến An Nam truyền giáo. Năm Khang
Hy thứ 59 (1721), binh hạm Pháp hiệu là Nga La Địa [39] cập vào Giao Chỉ, ba người sĩ quan lên bờ đến tỉnh Bình Thuận thì
bị thổ nhân bắt trói đem dâng cho vương. Hạm trưởng và thầy đạo
thương lượng, lấy nhiều vàng chuộc thân. Đấy là lần đầu Pháp, Việt giao thiệp. Năm
Càn Long thứ 14 (1749), Pháp vương Lộ Dịch thập ngũ mệnh tên Bì Dịch Phủ A Bột Nhi làm Toàn quyền đại thần, đến phủ Thuận Hóa
mưu thông thương, nhưng quốc vương không cho. Năm Càn Long thứ 18 (1753), người
Việt bắt nhiều giáo đồ Thiên Chúa. Năm thứ 51 (1786), Việt có nội loạn, Nguyễn
Nhạc tự xưng vương, Nguyễn Quang Bình sai con trai Cảnh Duệ đến nước Pháp xin
viện [40]. Năm sau, bèn đính ước đồng minh Pháp-Việt, cắt
đảo Côn Lôn và cảng Trà Lân cho Pháp. Chưa
bao lâu sau lại phá giao ước. Năm Gia Khánh thứ 25 (1820), tàu Pháp đến Việt
Nam đo lường cửa biển; người trong nước nhân đó xúi vương giết
người Pháp là Địch A Thị [41]. Năm Đạo
Quang thứ 27 (1847), người Pháp đem binh hạm đến cảng Trà Lân, đánh bại quân Việt [42].
Đến năm nay bèn đoạt Tây Cống, nơi đô hội thứ hai của Việt Nam.
Năm
Hàm Phong thứ 10 (1860), hoàng đế dụ Nội các rằng: “Lưu Trường Hựu tâu rằng
đã đến hạn vào cống của nước Việt Nam, nhưng việc quân ở Quảng Tây hiện tại
chưa xong, đường sá không yên,
nên việc cống hai năm Đinh Tỵ, Tân Dậu tạm thời hoãn lại.”
Năm
Đồng Trị thứ 1 (1862), Nã Phá Luân đệ tam nước
Pháp cử hải quân đánh Việt Nam, đoạt cảng Trà Lân, giao ước cắt ba tỉnh Biên
Hòa, Gia Định, Định Tường ở Hạ Giao Chỉ [43],
khai thông buôn bán ở ba cửa khẩu [44], bồi thường 200.000.000 phật lăng, rồi sẽ cho hòa. Tỉnh Gia Định tức là đất Tây
Cống.
Năm
thứ 2 (1863), Việt Nam quốc vương Nguyễn Phúc Thời nhân việc nhận di chiếu của
Văn Tông Hiển hoàng đế nên xin riêng được khiển sứ tiến hương,
dâng biểu mừng lên ngôi và cống phương vật. [Triều đình] khước từ. Năm thứ 3 (1864), mệnh hoãn lần cống
năm Ất Sửu (1865) của Việt Nam và hai lần cống thiếu.
Mùa
đông năm thứ 6 (1867), thổ phỉ nổi dậy ở hai phủ Thái Bình,
Trấn An của Quảng Tây, bị quan quân đánh nên thua chạy sang Việt Nam. Năm thứ 7
(1868), quốc vương xin riêng với Quảng Tây Tuần phủ Tô Phụng Văn tâu lên xin
binh giúp tiễu trừ. Hoàng đế mệnh Đề đốc Phùng Tử Tài đem 13 doanh đánh dẹp. Ngày 21 tháng 7 năm thứ 8
(1869), quân Hoa theo đường Trấn Nam quan tiến phát. Tháng 8, tù trưởng giặc
Ngô Côn đánh Bắc Ninh, bị súng bắn thương, uống máu chim công rồi chết. Bọn giặc
rất sợ, khi đại binh đến bèn xin hàng. Mùa đông, tù trưởng giặc Lương Thiên
Tích chạy về tây đến Tuyên Quang, nương nhờ thủ lĩnh giặc Hoàng Sùng Anh.
Năm
ấy, người Pháp cắt lấy ba tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long của nước Việt Nam.
Từ đấy sáu tỉnh Hạ Giao Chỉ đều lệ vào bản đồ Pháp.
Năm
thứ 9 (1870), đầu sỏ giặc Lưu Vĩnh Phúc ở xứ Bảo Thắng tỉnh Hưng Hóa, đầu sỏ giặc
Đặng Chí Hùng ở xứ Tô Nhai tỉnh Thái Nguyên đều đến hàng. Mùa hè, tháng 4,
Hoàng Sùng Anh trốn vào châu Bảo Lạc trong đất người Bạch Miêu, Đề đốc Phùng Tử Tài rút quân. Tháng 7, quân về
đến Long Châu thì Hoàng Sùng Anh lại chiếm cứ Hà Dương, Lưu Vĩnh Phúc lại chiếm
cứ Bảo Thắng ở Hưng Hóa, Đặng Chí Hùng lại chiếm cứ Tô Nhai ở Thái Nguyên. Tháng
7, kẻ giặc đầu hàng là Tô Quốc Hán thừa đêm tối đánh úp tỉnh Lạng Sơn; Bắc Ninh
Tổng thống Đoàn Thọ chết. Bấy giờ Quảng Tây Hậu bổ Từ Diên Húc nhân việc đấy đến
phố Khu Lư ngoài thành Lạng Sơn, điều binh trợ giúp người Việt công thành,
không hạ được. Tháng 11, bọn tù trưởng giặc Nguyễn Tứ, Hàng Chi Bình, Trương Thập
Nhất lại chiếm phủ Cao Bằng. Việt Nam lại khẩn cầu xuất quân, nên Hoàng đế mệnh
Phùng Tử Tài đốc quân rời cửa quan lần nữa. Quảng Tây Tuần phủ Lý Phúc Thái xin
lấy Quảng Đông Hậu bổ đạo Hoa Đình Kiệt làm Tương biện quân sự.
Mùa
hè năm thứ 10 (1871), Phùng Tử Tài đến Long Châu. Ngày 21 tháng 4, Tổng binh
Lưu Ngọc Thành đốc các tướng rời cửa quan đến Bắc Ninh. Tháng 9, Khâm Châu Tri
châu Trần Mỗ dụ bắt Tô Quốc Hán, giải đến chỗ Lưỡng Quảng Tổng đốc Thụy Linh giết
đi. Con trai hắn Tô A Đặng trốn ra biển, chiếm cứ núi Cẩu Đầu. Đạo viên Hoa
Đình Kiệt trở về Quảng Đông. Năm thứ 11 (1872), Quảng Tây Tuần phủ Lưu Trường Hựu
ra hịch cho Đạo viên Đàm Viễn Tấn cầm 10 doanh nghĩa dũng lo biên phòng ở hai
phủ Thái Bình, Trấn An; Phùng Tử Tài cũng được điều về phòng ngự biên giới.
Năm
thứ 12 (1873), quân Hoa sắp triệt thoái thì người Pháp đột nhiên đem binh thuyền
đến tỉnh Hà Nội. Quốc vương nói riêng rằng Tổng binh người Hoa là Trần Đắc Quý
phái đội đến ép phải cho vào. Lưu Trường Hựu căn cứ tình hình tâu lên, nên triều
đình mệnh cách chức quan đề tấn. Người Pháp
bèn chiêu mộ lính tản dũng [45] Trung Quốc
và học trò thi rớt ở biên giới Vân Nam, tấn công các tỉnh Việt Nam, thủ thần nước
ấy đa phần đầu hàng. [Khi Pháp] đến tỉnh Thái Nguyên, thủ thần gọi Lưu Vĩnh
Phúc đến tương trợ. Quân Pháp đến, Vĩnh Phúc đặt mai phục đánh bại được, bắt viên
soái An Nghiệp của chúng. Người Pháp
thua chạy về tỉnh Hà Nội, cầu hòa với vương, nên vương khiển bề tôi Nguyễn Văn
Tường cùng bàn. Người Pháp mở quán ở Hà Nội, đồng thời đặt cửa quan thu thuế tại
cửa biển Bạch Đằng.
Ban
đầu, tù trưởng giặc Hoàng Sùng Anh là em họ của Ngô Côn, Lưu Vĩnh Phúc cũng là
bè đảng của Ngô Côn. Khi Ngô Côn chết, em trai Ngô Kình tự giết cả nhà. Hoàng
Sùng Anh, Lưu Vĩnh Phúc vốn không ưa nhau. Vĩnh Phúc đầu hàng, được Việt Nam
vương trao cho chức Đề đốc ba tỉnh, còn Hoàng Sùng Anh chiếm cứ Hà Dương làm trộm
cướp, không chịu trói buộc. Năm thứ 13 (1874), Lưu Trường Hựu khiển Lưu Ngọc
Thành đem 10 doanh tả quân, khiển Đạo viên Triệu Ốc cầm 10 doanh hữu quân, theo
đường phủ Trấn An rời cửa quan đánh dẹp Hoàng Sùng Anh.
Năm
ấy, người Pháp ép buộc Việt Nam vương công bố hai việc về Thiên Chúa giáo và
lưu thông thuyền bè trên sông Hồng. Sông Hồng tức là sông Phú Lương. Rồi lại lấy
cớ bảo vệ giao thương để phái binh đóng giữ các đất Hà Nội, Hải
Phòng, và xin khai khoáng ở vùng núi thượng lưu sông Hồng.
Năm
Quang Tự thứ 1 (1875), Triệu Ốc thắng liên tiếp ở các xứ như huyện Để Định và
phủ Tương An, thổ dân Bảo Lạc và người Bạch Miêu đều hẹn
ra hàng. Hoàng Sùng Anh cầm quân tới chống cự, rồi lại bỏ trốn. Triệu Ốc đốc các
quân đánh hạ sào huyệt người Lão [46] ở
Hà Dương, bè đảng giặc là Trần A Thủy đầu hàng. Tháng 7, bắt Hoàng Sùng Anh,
phanh thây. Mùa xuân năm thứ 2 (1876), rút quân.
Năm
thứ 7 (1881), Lưu Trường Hựu chuyển đến làm Tổng đốc Vân Quý, biết người Pháp
có ý lấy Việt Nam để dòm ngó thượng lưu Điền, Việt, nên dâng sớ nói:
“Các tỉnh biên giới là cửa ngõ của Trung Quốc;
các nước ngoại phiên là phên dậu của Trung Quốc. Phên dậu sập ắt cửa ngõ nguy,
cửa ngõ nguy ắt trong nhà chấn động. Việt Nam là răng môi của Điền, Việt. Các nước Thái Tây từ khi lập bến tàu ở Ấn Độ, Tân Gia Ba, Tân Lang Dữ đến nay, thì nước Pháp thèm muốn Việt Nam đã
lâu. Mở chợ ở Tây Cống, chiếm cứ nơi yếu hại, lại thông đồng với giặc dữ Hoàng
Sùng Anh, cướp lấy Đông Kinh, tụ binh mưu vượt sông Hồng để xâm lấn các xứ Lạng
Sơn, lại muốn cắt 60 lí đất biên giới
Việt Nam-Quảng Tây làm nơi trú binh.
Thần bấy giờ nhậm chức Quảng Tây Tuần phủ, tuy
binh mỏi lương thiếu, nhưng lập tức khiển tướng tốt rời cửa quan sang cứu viện.
Người Pháp không hài lòn nên vu cáo ở nha môn thông thương, bảo rằng thần ôm ấp
lòng gây họa, có ý phá minh ước. Nhờ Nghị hoàng đế xét thấy thần ngu trung, nên cho xuất quân
giúp tiễu trừ, trong đánh ra ngoài đánh vào. Việt Nam chiêu dụng Lưu Vĩnh Phúc
để bẻ gãy mũi nhọn của bọn tướng Pháp, giặc cỏ. Hai cánh quân Quảng Tây, đường bên
tả theo Đề đốc Lưu Ngọc Thành đến Thái Nguyên, Bắc Ninh, đường bên hữu theo Đạo
viên Triệu Ốc qua Hưng Hóa, Tuyên Quang, chia đánh đảng giặc, tiến thẳng đến An
Biên, Hà Dương, phá sào huyệt của Sùng Anh, giết hết bọn đầu sỏ. Nên người Pháp
ngưng âm mưu, không dám để lộ ý thôn tính, nay đã gần một kỷ.
Tuy nhiên thần thường hỏi han các tướng ở biên
giới, biết chí của người Pháp muốn lấy Việt Nam bằng được, để dòm ngó cõi ngoài
Điền, Việt mà thông đường đến Sở, Thục. Chúng giở trò gian xảo, dấy họa sát mình. Từ đầu mùa
thu đến nay, nước Pháp gia tăng kinh phí cho thủy sư ở Việt Nam, hạ nghị viện
nước ấy bàn việc vay 250 vạn phật lăng để trang trải cho thủy sư ở vịnh Đông Kinh. Hải quân khanh nước ấy Cách La Ái hằng
ngày trù hoạch việc binh ở Đông Kinh, đợi việc ở Đột Nhi Tư Á xong thì lập tức tiến hành. Trộm nghĩ rằng
người Pháp quả là nuôi chí mà giấu mưu, ham lợi mà bội ước vậy. Nghe trộm rằng
kẻ tạo mưu là Bá Lãng Thủ Bàn, làm Tuần kiểm ty ở Tây Cống của Việt Nam. Từ sau
khi mở cảng, gọi Thổ Di vào
dân khách vào đông đến trăm vạn, dân tình dần hòa hợp, sản vật ngày một tăng.
Dân buôn ở Khắc Phố Trại cũng đông hơn trăm vạn, chở
gạo ra nước ngoài hằng năm trăm vạn thạch. Số phú thuế trưng thu vào kho tàng ở
Tây Cống hằng năm đến 250 vạn phật lăng. Khắc Phố vốn hoang vu, nay được mở
mang phố xá, đường lối ngay thẳng, kênh rạch sửa sang. Người Khắc Phố cảm ân đức của Pháp, từ đầu đã đem 600 vạn
khẩu hiến đất quy phụ, nên Bá Lãng Thủ Bàn đem tình hình Việt Nam báo cho Tổng
thống của mình. Một dải sông Phú Lương, Pháp đã đặt thuyền mở chợ, bàn tính đi
ngược dòng lên sông Lan Thương để thông thương hàng hóa Trung Quốc, cấu kết
với tù trưởng Di địa phương để dòm ngó biên giới Điền, Việt. Lại xây đường sắt
từ Tây Cống đến Khắc Phố Trại để tránh đường biển xa xôi. Việt Nam bốn bề đều
có dấu tích của người Pháp, chính trị suy đồi, binh phú thiếu thốn, thế đã nguy
như trứng sắp rơi. Nay lại hưng binh thôn tính, kèm theo dân phản loạn Khắc Phố,
thế ắt suy bại không thể trụ nổi. Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), Đề đốc Pháp chỉ mới
nổ pháo tỏ uy thì ba tỉnh miền tây đã rơi vào tay Pháp. Rồi thuyền bè lưu thông
trên sông Hồng càng làm mất chỗ hiểm địa. Điều ước đã lập chỉ có Đông Kinh là
không chịu cho; thế nước nguy ngập mà vẫn cậy đấy là thế ỷ giác. Nếu lại mất
Đông Kinh, [Pháp] sẽ lập tức dốc hết binh lực tiêu diệt Phú Xuân, khi ấy không
thể đứng vững nữa.
Thần cho rằng người Pháp cử binh lần nay là có
ý thôn tính toàn cõi. Sau khi đã lấy được, chúng ắt xin lập lãnh sự ở các xứ Mông Tự để trộm nguồn
lợi khoáng vật vàng thiếc trên núi, hoặc là giữ lấy đường sông từ Thục ra biển,
chiếm cứ cửa khẩu thông thương của miền thượng du. Huống hồ miền nam Điền từ thời
Đồng Trị về sau khi bình định phản nghịch người Hồi [47], bọn dư đảng kiệt hiệt sót lại hoặc ngầm trốn
vào rừng núi Việt Nam, hoặc chạy ra cảng biển làm việc cho Pháp, hư thực quân
tình hay tình hình biên giới đều tiết lộ hết, nên bấy giờ có người Di lẻn vào
Điền để xem tình thế. Giả sử Pháp diệt Việt Nam, nghịch đảng ắt sẽ dẫn đường
vào cướp, thỏa sức bày mưu cắn lại. Thần nhậm việc biên phòng, ở sát giặc
ngoài, không thể nghe tin mà không báo.”
Tấu đưa vào không được trả lời.
Bấy
giờ sứ thần trú ở Anh, Pháp là Tăng Kỷ Trạch đem chuyện nước Việt tranh biện với
triều đình Pháp; Phúc Kiến Tuần phủ Đinh Nhật Xương cũng dâng sớ báo việc
Pháp-Việt. Hoàng đế mệnh Bắc Dương đại thần Lý Hồng Chương trù tính biện pháp,
đồng thời dụ Tổng đốc, Tuần phủ ven sông ven biển bí mật chuẩn bị sẵn.
Tháng
2 năm thứ 8 (1882), người Pháp đem binh hạm từ Tây Cống đi đến Hải Dương, mưu lấy
Đông Kinh. Trực đốc Trương Thọ Thanh báo lên. Hoàng đế dụ Vân Nam Đề đốc chờ cơ
hội mà ứng phó. Tháng 3, chuyển Tăng Quốc Thuyên làm Lưỡng Quảng Tổng đốc. Pháp
tấn công Đông Kinh, phá được. Trương Thọ Thanh tâu xin nên lệnh quân phòng thủ ở
Điền, Việt giữ vững ngoài thành, lấy cớ tiễu trừ thổ phỉ, dựa vào địa đồ tiến
sang, đồng thời lệnh binh hạm Quảng Đông ra biển làm thanh viện.
Tháng
5, Vân Nam Đề đốc Lưu Trường Hựu khiển Đạo viên Trầm Thọ Dung cầm binh rời cõi,
cùng quan quân Quảng Tây liên lạc thanh thế, bảo hộ Việt Nam, đồng thời tâu rằng:
“Dò la được rằng người Pháp sau khi phá
Đông Kinh thì rút quân về đóng trên thuyền bánh xe, ngày một tăng binh, chiêu mộ
thêm trộm cướp, treo thưởng một
vạn vàng nếu bắt được Lưu Vĩnh Phúc, mười vạn vàng nếu lấy được châu Bảo Thắng. Lãnh sự
Pháp từ sau khi phá thành và cướp
bóc nha môn thương chính, báo rõ cho các thương nhân rằng thuế xuất nhập hàng đã
theo lệ mới. Hiện
chúng vẫn điều lục quân gấp rút đóng thuyền bè, tính kế lấy Bảo Thắng ở miền tây.
Việt vương phái Binh bộ Thị lang Trần Đình Túc
tiếp nhận chức Thự Hà Nội Tổng đốc, khiển bọn Lại bộ Thượng thư Nguyễn Chính đến
Sơn Tây, cùng bọn Hoàng Tá Viêm trù tính kế sách chống địch. Tuần phủ, Bố, Án
các tỉnh đa phần cùng Hoàng Tá Viêm, Lưu Vĩnh Phúc đồng lòng nhất quyết tử chiến.
Về sau Thống lĩnh phòng quân Đề đốc Hoàng Quế Lan báo rằng: ‘Lưu Vĩnh Phúc chạy
đến Sơn Tây, đi qua Lạng Sơn tới gặp, tỏ rõ trung nghĩa, cảm kích cố gắng. Hắn
nói rằng nếu phân binh đến Bắc Ninh giúp giữ Bảo Thắng, không chừng sẽ cản được
người Pháp. Song binh lực không đủ, mong Thiên triều tiếp viện.’
Thám báo ở Hà Nội nói người Pháp sợ viện binh
đột ngột đến, nên thả Hà Nội Tuần phủ đã bắt được, giao trả thành trì và kho tàng. Tuần phủ không nhận, nói rằng người
Pháp trái hẹn lộng binh, thề sẽ tự tử, bèn chuyển giao cho Án sát sứ. Tông thất
Nguyễn Bá Phục dùng hỏa dược cho nổ Đông Kinh để tránh người Việt lại tụ tập, đồng
thời chia binh lực giữ
các tỉnh. Thuyền bánh xe có chiếc xuôi về đông xuống Hải Dương, có chiếc chia
ra đi đến Quảng Nam, Tây Cống, đợi binh tăng thêm tập trung hết sẽ tiến hành đi
lên thượng du. Tra xét được rằng người Pháp đốt phá Đông Kinh, mưu mẹo khó lường,
bầy tôi Việt Nam đều quyết kế chủ chiến.
Sơn Tây miền trên thông với đất hiểm yếu của
Vân Nam, nếu quân Việt [Nam] dốc sức chống giữ, chẳng những biên phòng Điền, Việt
giữ được, mà đại cục Việt Nam cũng còn cơ hội chấn hưng. Nhưng Tổng đốc tỉnh Việt
cùng Tổng thự bàn rằng lấy binh lực ba tỉnh Điền, Việt, Quế giành lại Bắc Kỳ là
sách lược hàng đầu, có thể thừa thế mà giải quyết sớm để ngăn dòm ngó. Nhưng nước
Việt bị người Pháp khống chế đã lâu, lòng người khiếp sợ. Lần này quyết chiến ở
Sơn Tây phải thắng bằng được, dù thua một trận nhỏ thì cũng khó lo toan được đại
cục. Nếu Sơn Tây bị mất, ắt người Pháp tiến về tây vào cửa sông Tam Giang,
không chỉ mình Bảo Thắng mất chỗ che chở, mà tỉnh Điền từ sông Hà Để trở xuống
đều phải dần dần đặt phòng bị, hao tổn thêm phí. Đem cơ sự mà luận, thì Trung
Quốc khó có thể ngồi yên mà nhìn, hơn nữa không thể đợi Sơn Tây mất mới lo tiếp
viện sau.”
[Triều đình] triệu Trường Hựu vào chầu,
lấy Sầm Dục Anh nắm Vân Nam.
Tên
Lưu Vĩnh Phúc là người châu Thượng Ân ở Quảng Tây. Thời Hàm Phong, Quảng Tây loạn,
Vĩnh Phúc đem 300 người rời Trấn Nam quan. Bấy giờ người Quảng Đông là Hà Quân
Xương chiếm cứ Bảo Thắng, Vĩnh Phúc đánh đuổi đi rồi chiếm Bảo Thắng, cờ của bộ
hạ đều màu đen, gọi là “quân Cờ Đen”. Vĩnh Phúc lập được công, nên Việt Nam
trao cho chức Đề đốc ba tỉnh. Thường hay tự chuẩn bị lương thực
khí giới để tiễu trừ phỉ, nhưng Hoàng Tá Viêm đều giấu đi không báo lên, bề tôi người
Việt cũng đa phần đố kị, nên Vĩnh Phúc tích oán với Tá Viêm. Tá Viêm là phò mã
Việt Nam, từ chức Đại học sĩ được giao đốc quân, các Tổng đốc, Tuần phủ đều chịu
tiết chế. Phùng Tử Tài là Quảng Tây Đề đốc, khi Tá Viêm có việc đến gặp thì Tử
Tài ngồi trên đài của tướng, lệnh phải quỳ ba lần khấu chín lần mới cho gặp,
nên Tá Viêm căm hận đến tận xương. Thế nước Việt đã rất khó, nhưng quốc vương
Nguyễn Phúc Thời vẫn cực lực quyết chiến, lệnh Tá Viêm đốc thúc Vĩnh Phúc xuất
quân, điều sáu lần mà không đến. Quân Pháp kị Vĩnh Phúc, nên Việt vương trông cậy
hắn đến cùng.
Trước
kia, Lưu Trường Hựu mệnh Phiên ty Đường Huỳnh đem bộ hạ cũ đóng ở Bảo Thắng;
Tăng Quốc Thuyên đến Việt mệnh Đề đốc Hoàng Đắc Thắng thống binh phòng bị Khâm
Châu, Đề đốc Ngô Toàn Mĩ đem tám chiếc thuyền chiến phòng bị Bắc Hải; Quảng Tây
Phòng quân Đề đốc Hoàng Quế Lan, Đạo viên Triệu Ốc tương kế rời cửa quan; gọi
là ba tỉnh hợp sức giành lại Bắc Kỳ vậy. Bấy giờ người Pháp đòi Trung Quốc cùng
bàn chuyện nước Việt, nên dụ Điền, Việt trù hoạch chuẩn bị hội nghị. Khi sứ
Pháp là Bảo Hải [48] đến Thiên
Tân, mệnh Bắc Dương đại thần thương lượng các việc thông thương và phân giới ở Việt Nam. Lại bộ Chủ sự Đường Cảnh
Tung tự xin đến Việt Nam chiêu phủ Lưu Vĩnh Phúc, nên Hoàng đế mệnh phát Sầm Dục
Anh ở Vân Nam sai khiển.
Tháng
giêng năm thứ 9 (1883), Cảnh Tung mượn đường Việt Nam vào Vân Nam, trước hết đến
Quảng Đông yết kiến Tăng Quốc Thuyên, kể lại hội nghị, rồi đi riêng vào Việt
[Nam]. Khi gặp Vĩnh Phúc, trình bày ba kế sách gồm:
“Việt bị Pháp bức, sớm muộn sẽ mất. Nên dựa vào Bảo Thắng để
truyền hịch mà dẹp các tỉnh, xin mệnh từ Trung Quốc, giả làm danh nghĩa, việc
thành ắt được làm vương; đấy là thượng sách. Điều ngay toàn quân đánh Hà Nội,
đuổi người Pháp, Trung Quốc sẽ trợ giúp lương thực; đấy là trung sách. Ngồi giữ
Bảo Thắng, thất bại thì nương nhờ Trung Quốc; đấy là hạ sách.” Vĩnh Phúc đáp: “Sức
yếu không đương nổi thượng sách, trung sách cũng miễn cho.”
Tháng 3, quân Pháp phá Nam Định. Hoàng đế dụ Quảng Tây Bố
chính sứ Từ Diên Húc rời cửa quan thương lượng, Hoàng Quế Lan, Triệu Ốc lo
phòng bị. Lý Hồng Chương có tang cha mẹ, để tang xong được trở lại nhậm chức Bắc
Dương đại thần, nhưng Hồng Chương khẩn khoản từ chối. Đến nay, mệnh Hồng Chương
đến Quảng Đông bàn việc Việt Nam, quân phòng thủ ba tỉnh Việt, Điền, Quế đều về
dưới sự tiết chế. Hồng Chương tâu xin đến Thượng Hải trù hoạch toàn cục. Sứ
Pháp là Bảo Hải ở Thiên Tân bàn bạc lâu ngày không xong nên bị điều về nước, lấy
Tham tán Tạ Mãn Lộc [49] thay thế.
Lưu Vĩnh Phúc đánh nhau với người Pháp ở Cầu Giấy tại Hà
Nội, đại phá quân Pháp, chém tại trận tướng Pháp là Lý Thành Lợi. Việt
vương phong Vĩnh Phúc làm nam tước nhất đẳng. Từ Diên Húc tâu xin giữ lại doanh
biên phòng của Đường Cảnh Tung để sử dụng, đồng thời kể chiến tích của Vĩnh
Phúc. Hoàng đế giục Lý Hồng Chương trở lại nhậm chức Bắc Dương đại thần, đồng
thời hỏi sứ Pháp là Đoái Lợi Cổ [50] về tình trạng ở đất Hỗ, lệnh Hồng
Chương chọn ngày hội nghị. Đoái Lợi Cổ hỏi Hồng Chương: “[Thanh] có giúp Việt
không?”, thì Hồng Chương vẫn lấy cớ là tiễu phỉ biên giới. Nhưng quân Pháp đã
chuyển sang tấn công quốc đô Thuận Hóa, ép phải nghị ước.
Hồng Chương cùng sứ Pháp mới là Đức Lý [51] bàn bạc
không thành. Quân Pháp nói phao là sắp xâm phạm Quảng Đông, Quảng Đông liền giới
nghiêm. Tổng thự xem thư của sứ Pháp, nói rằng: “Việt Nam liệt làm phiên
phong từ lâu, được Trung Quốc dùng binh giúp tiễu phỉ, dốc sức bảo hộ. Nay người
Pháp xâm lăng không ngừng, há có thể coi nhẹ? Giả sử rốt cuộc chúng xâm lấn đất
trú đóng của quân ta, thì chỉ có quyết chiến, không thể ngồi nhìn.” Hoàng đế
dụ Từ Diên Húc sắc Lưu Vĩnh Phúc nhân cơ hội giành lại Hà Nội, còn nếu quân
Pháp xâm phạm Bắc Ninh thì lập tức lệnh tiếp chiến. Mệnh Vân Nam Đề đốc tăng
binh phòng biên, sai Đường Phủ Tấn đi trước chuẩn bị chiến đấu, đồng thời tiếp
lương cho quân của Vĩnh Phúc. Lại mệnh Sầm Dục Anh rời cửa quan đốc quân.
Quân Pháp phá tỉnh Sơn Tây của Việt, thế Quảng Đông nguy
cấp. Lấy Bành Vương Lân làm Khâm sai đại thần, đôn đốc quân Quảng Đông. Bành
Vương Lân tâu: “Người Pháp ép Việt Nam lập điều ước, muốn Trung Quốc không
can dự vào đất phía nam sông Hồng, đồng thời cho phép thông thương tại huyện
Mông Tự ở Vân Nam, lộ rõ mưu đồ lấy cương vực Vân Nam của ta, hòng chiếm nguồn
lợi ngũ kim. Không những biên giới Điền, Việt giới nghiêm, mà Quảng Đông, Thiên
Tân cũng phải phòng bị nghiêm ngặt.”
Bấy giờ Việt Nam vương Nguyễn Phúc Thời hoăng, không có
con trai nên lấy em họ nối dõi. Người Pháp thừa cơ nước Việt có tang mới, đem
thuyền chiến tấn công cửa biển Thuận Hóa, vào chiếm đô thành. Tự quân Việt Nam ở ngôi mới một tháng thì Phụ chính Nguyễn Thuyết dâng khải xin Thái phi phế đi, đổi sang lập Nguyễn Phúc Thăng. Đến nay, xin hàng với Pháp, lập hòa ước 27 điều, điều thứ nhất nói rằng Trung Quốc không được can dự vào chuyện của
Việt Nam. Ngoài quyền chính ấy, các quyền lợi khác đều về tay người Pháp. Lại
ép vương dụ các tướng thoái binh, nhất là trục xuất Lưu Vĩnh Phúc. Vân Nam Tuần
phủ Đường Huỳnh nhiều lần giục Vĩnh Phúc thoái binh. Vĩnh Phúc muốn rút về đóng
ở Bảo Thắng, nhưng tướng sĩ Cờ Đen đều phẫn nộ. Phó tướng Hoàng Thủ Trung nói:
“Ông có thể rút về Bảo Thắng, nhưng xin đem toàn quân giao cho tôi giữ Sơn
Tây. Nếu có công, ông cứ ở đấy, có tội quy hết cho mạt tướng.” Vĩnh Phúc không
nói gì nữa mà rút lui.
Từ Diên Húc tâu rằng: “Người Việt đột ngột nghị hòa,
có kẻ nói vì vua cũ chưa táng nên tạm ngoảnh mặt với việc trước, có kẻ nói vì
hiềm khích khi phế lập nên đình thần kết đảng dấy họa. Bề tôi nước Việt là bọn
Hoàng Tá Viêm liên tiếp ký kết hòa ước, nước Việt thực không muốn giữ xã tắc, thì
sao Trung Quốc phải cố vì phên dậu? Bề tôi nước Việt liền lấy cớ đợi táng vua
cũ sẽ xem xét lại, xin đừng triệt binh. Lưu Vĩnh Phúc vẫn đóng giữ Sơn Tây. Tự
vương Nguyễn Phúc Thăng nối ngôi, bẩm báo tin buồn, đồng thời khẩn nài phê chuẩn
cho khiển sứ đến cửa quyết xin phong. Lòng người nước Việt phân tán, khó tự đứng
vững được, chưa thể hòa ngay.” Lại đem 27 khoản trong hòa ước Pháp-Việt và
lời thưa bẩm của bề tôi nước Việt là Hoàng Tá Viêm đưa đến Quân cơ xứ. Lưỡng
Giang Tổng đốc Tả Tông Đường xin sắc cho tiền Phiên ty Vương Đức Bảng mộ quân nghĩa
dũng đến biên giới Quảng Tây chặn giữ.
Tháng 11, người Pháp phá tỉnh Hưng Hóa, bắt Tuần phủ, Bố
chính, Án sát về Hà Nội xử bắn. [Pháp] tiến công Sơn Tây, phá được. Lưu Đoàn Hội,
Vĩnh Phúc rút về giữ thành Hưng Hóa. Tháng 12, tự vương Nguyễn Phúc Thăng bệnh nặng
rồi mất, có kẻ nói là sợ Pháp ép nên tự sát. Người trong nước lập con nuôi thứ ba của tiền vương Nguyễn Phúc Thời làm vương, tức là con của Phụ chính Nguyễn
Thuyết [52]. Từ Diên Húc tâu báo việc Sơn Tây thất thủ, Bắc Ninh vẫn không có tin gì
mới; Hoàng đế trách hắn khoe khoang.
Năm thứ 10 (1884), Đường Cảnh Tung gửi thư từ phủ Thượng
Xu ở Bảo Thắng, nói rằng: “Hai quân Vân Nam, Quảng Tây khi trao đổi báo cáo
với nhau thường chậm trễ nhiều ngày, thanh thế thực không dễ liên lạc. Việt Nam
trong vòng nửa năm ba lần đổi tự quân, thần dân hoảng hốt giống như vô chủ. Muốn
chăm gốc rễ để dẹp mầm loạn, chi bằng khiển quân vào thẳng Thuận Hóa, nâng đỡ
vua nước ấy, để định lòng người mà quét đảng phỉ. Sức địch có thế mới át dần,
mà việc quân cũng nằm trong tay ta, đấy là tính kế cho phên dậu. Các tỉnh Bắc Kỳ
ven biên giới ta ngăn không cho cướp lấy, để tránh mất vào tay người ngoài. Nếu
không trù trừ hai đầu ấy, thì kiểu gì cũng sẽ thua tiếp.”
Lưu Vĩnh Phúc yết kiến Sầm Dục Anh ở Gia Dụ quan. Dục Anh
đối đãi cực kỳ ưu ái, biên quân của hắn làm 10 doanh. Khi quân Pháp tấn công Bắc
Ninh, Dục Anh khiển Cảnh Tung đưa toàn quân của Vĩnh Phúc đến tiếp viện. Hoàng
Quế Lan, Triệu Ốc của quân Quảng Tây bấy giờ thủ Bắc Ninh, trong cuộc bao vây
Sơn Tây bọn Quế Lan ngồi nhìn không cứu, nên Vĩnh Phúc hận sâu. Cảnh Tung giãi
bày hết sức, [Vĩnh Phúc] mới đến tiếp viện. Cảnh Tung khuyên Quế Lan rời thành
chặn ải mà thủ, Quế Lan không nghe. Tháng 2, quân Pháp tấn công Phù Lương, Tổng
binh Trần Đắc Quý xin viện. Quân Bắc Ninh đến thì Phù Lương đã vỡ. Quân Pháp
bèn áp sát Bắc Ninh. Hoàng Quế Lan, Triệu Ốc thua chạy về Thái Nguyên, Lưu Vĩnh
Phúc cũng ngồi nhìn không cứu.
Từ Diên Húc già yếu, là người quen cũ của Triệu Ốc, rất
tin cậy. Triệu Ốc yếu hèn, tướng của hắn là Mẫn Tuyên gian dối, lừa phỉnh Diên
Húc. Khi địch phạm Bắc Ninh, Mẫn Tuyên chạy trước. Trần Đắc Quý là bộ hạ cũ của
Phùng Tử Tài, kiêu dũng thiện chiến. Tử Tài từng hạch tội Diên Húc, Diên Húc giận
nên oán Đắc Quý. Khi Bắc Ninh bị hãm, [Diên Húc] bèn tâu xin giết Đắc Quý; Mẫn
Tuyên cũng bị khép vào chính pháp. Diên Húc điều độ thiếu sót, hoàng đế mệnh
cách chức, nhưng vẫn ở lại nhiệm sở.
Tháng 3, mệnh Hồ Nam Tuần phủ Phan Đỉnh Tân lo việc quân
ngoài cõi Quảng Tây, tiếp nhận quân của Từ Diên Húc. Hoàng Quế Lan sợ tội, uống
thuốc mà chết. Hoàng đế dụ: “Từ Diên Húc thủ Lạng Sơn, chỉ lệnh Đề đốc Hoàng
Quế Lan, Đạo viên Triệu Ốc trú giữ Bắc Ninh, gặp địch thì vỡ trước, thống hận
quá thể! Từ Diên Húc bị cách chức xét hỏi. Tình hình thua trận của Hoàng Quế
Lan, Triệu Ốc giao cho Phan Đỉnh Tân tra biện.” Lấy Vương Đức Bảng làm Quảng
Tây Đề đốc, nhưng Đức Bảng từ chối không nhận. Đường Huỳnh bị cách chức để tra
hỏi, nên lấy Trương Khải Tung làm Vân Nam Tuần phủ.
Sau trận thua Bắc Ninh, Từ Diên Húc lấy quân hộ tống của
Đường Cảnh Tung thu nhặt số tàn quân, quản thúc rõ ràng. Bấy giờ Đường Nhân
Liêm làm Quảng Tây Đề đốc. Quân Pháp theo đường Bắc Ninh tiến chiếm Hưng Hóa,
đem riêng 8 chiếc binh hạm vào biển Trung Quốc, dòm ngó Hạ Môn và các cửa Thượng
Hải, Ngô Tùng, ven biển giới nghiêm. Vì thế Trung-Pháp bắt đầu hòa nghị.
Tháng 4, Lý Hồng Chương và tổng binh Pháp là Phúc Lộc Nặc thương lượng điều khoản tại Thiên Tân, dụ quân phòng thủ Vân Nam, Quảng
Tây đợi chỉ, ngưng tiến. Hồng Chương về, đem năm khoản trong hòa ước vào báo
cáo, đại lược nói: “Vùng biên giới nam Trung Quốc nối liền Bắc Kỳ, nước Pháp
sẽ nhận bảo hộ, không xâm chiếm nhau. Trung Quốc theo đó đồng ý cho buôn bán hàng
hóa Pháp, Việt ở vùng nối liền Bắc Kỳ. Tương lai nếu Pháp và Việt thay đổi điều
ước cũng quyết không sáp nhập, hại đến thể hiện của Trung Quốc.” Triều đình
ra chỉ báo là đồng ý, cho Hồng Chương toàn quyền kí kết. Thế rồi công sứ Pháp
thấy phần tóm tắt điều ước bằng tiếng Pháp và tiếng Hán không khớp với nhau, nên
Hoàng đế trách Hồng Chương biện lí nhập nhằng, cùng bàn luận những sai sót của
Hồng Chương, mắng là “thông đồng với người Di.” Sứ Pháp mượn cớ ấy phế ước, nên
Hoàng đế lệnh ngoài biên chỉnh đốn quân phòng bị nghiêm, nếu chúng rốt cuộc muốn
xâm phạm phải lập tức ngăn chặn. Mệnh Sầm Dục Anh gọi Lưu Vĩnh Phúc đem quân bản
bộ trở về. Phan Đỉnh Tân tâu: “Quân Pháp chia đường vây hãm hai xứ Cốc Tùng,
Đồn Mai. Quân Quảng Tây thiếu vũ khí, ít lương thực, e không thể cầm cự.”
Hoàng đế thấy hắn thoái thác nên trách cứ.
Quân Pháp muốn tuần tra Lạng Sơn, đến cầu Quan Âm thì bị
quân Quảng Tây chặn lại không cho vào. Tướng Pháp nói năng thất lễ nên hai bên đánh
nhau, [quân Quảng Tây] thắng được. Khi tấu đưa vào, [Hoàng đế] dụ đưa thư đến Bắc
Ninh, trách sứ Pháp nổ pháo trước, bắt phải đền bù. Lệnh cho Ngoại bộ của Pháp
dừng quân Pháp lại, đồng thời dụ quân ta: “Nếu chúng không đến xâm phạm,
không nên tiến trước.” Sứ Pháp tiếp tục xin hòa nghị, nên Hoàng đế dụ quân Quảng
Tây về Lạng Sơn, quân Vân Nam về Bảo Thắng, không được gây hấn.
Tướng Pháp là Cô Bạt muốn đem binh hạm quấy nhiễu cõi
biển, sứ Pháp là Ba Đức Nặc lưu lại Thượng Hải không chịu rời bến. [Triều
đình] bèn đổi sang phái Tăng Quốc Phiên, Toàn quyền đại thần Trần Bảo Sâm họp
bàn, Thiệu Hữu Liêm, Lưu Lân Tường đi cùng để biện lí. Dụ rằng: “Binh phí,
tuất khoản [53] nhất định không được đồng ý. Việt Nam phải phong cống như
cũ. Quân của Lưu Vĩnh Phúc, nếu chúng đề cập đến, thì do ta sắp xếp. Phân giới
phải chọn những đất trống ngoài biên mà đặt đồn thú. Việc thông thương với Vân
Nam chỉ ở Bảo Thắng, không được vượt quá năm phần trăm.”
Tháng 6, tướng Pháp là Cô Bạt đem 8 chiếc binh hạm đến
dòm ngó vùng biển Phúc Kiến, hòng chiếm đất để mặc cả, ép Trung Quốc nghị ước.
Hà Kính, Trương Bội Luân báo lên. Tàu Pháp tấn công pháo đài Cơ Long ở Đài Loan;
Đài Loan Tuần phủ Lưu Minh Truyền chống giữ. Tăng Quốc Thuyên, Trần Bảo Châu
nghị ước với sứ Pháp tại Thượng Hải, Quốc Thuyên hứa cấp 50 vạn [quan tiền] làm
phí phủ tuất, vâng chỉ trách mắng cấp dưới. Bàn bạc lâu ngày chưa xong, nên [triều
đình] nhất ý chủ chiến. Dụ Sầm Dục Anh lệnh Lưu Vĩnh Phúc tiến binh đi trước giành
lại Bắc Kỳ, các quân trong nước của Sầm Dục Anh, Phan Đỉnh Tân lục tục tiến
theo. Vì người Pháp phá hòa ước, nên không báo cho các nước.
Tháng 7, Công sứ Pháp là Tạ Mãn Lộc hạ cờ rời kinh. Hoàng
đế bèn tuyên dụ rằng:
“Việt Nam là nước
phong cống của ta hơn hai trăm năm nay, ghi tại sử sách, trong ngoài đều hay.
Người Pháp trước kia chiếm các tỉnh Nam Kỳ, rồi lại tiến chiếm Hà Nội, giết người
dân, lấy đất đai, đoạt phú thuế nước ấy. Việt Nam ngu dốt yếu đuối nên lập hòa
ước riêng mà chưa tâu lên, muốn vãn hồi cũng không kịp. Việt cũng có tội, vì thế
hẵng tạm tha thứ, không vặn hỏi đến. Năm Quang Tự thứ 8, sứ Pháp là Bảo Hải ở
Thiên Tân nghị ước ba điều với Lý Hồng Chương, sắp giao Tổng lí các quốc sự vụ
nha môn [54] thương lượng trù hoạch thì người Pháp lại trở mặt. Các tỉnh
Sơn Tây, Bắc Ninh của Việt là đất quân ta trú đóng để càn quét thổ phỉ người Việt,
bảo hộ phên dậu thuộc quốc, chẳng hề phạm gì đến nước Pháp. Tháng 2 năm nay,
quân Pháp rốt cuộc đến xâm phạm. Sắp giáng chỉ tuyên hành, cử phái viên tiến đánh,
thì bỗng nhiên Tổng binh nước ngươi là Phúc Lộc Nặc đến Trung Quốc trước để nghị
hòa. Lúc ấy nước Pháp vì việc Ai Cập gấp gáp đáng nguy, Trung Quốc biết rõ sự
thế bức bách, dù vốn có thể nghiêm túc cự tuyệt, nhưng vì muốn tỏ ra rộng lượng
nên cho thi hành, đặc mệnh Lý Hồng Chương cùng bàn bạc, làm rõ năm khoản trong
điều ước, trù hoạch với nhau. Các quân Lạng Sơn, Bảo Thắng, chiếu theo lời bàn
đã định thì sau tháng 3 sẽ điều về, nhiều lần răn dụ các quân phòng thủ đóng
nguyên chỗ cũ, không được kinh động dấy hấn. Tướng sĩ các quân vâng lệnh cẩn thận,
chỉ có nước Pháp không tuân định ước, bỗng nhiên vào các ngày 1 và 2 tháng 5
nhuận lấy cớ tuần biên để áp sát doanh trại phòng thủ ở Lạng Sơn, nổ pháo oanh
kích trước. Quân ta mới phải tiếp chiến, có sát thương lẫn nhau. Người Pháp làm
trái điều ước, vô vớ dấy hấn, làm bị thương quan binh ta, vốn đáng phải dùng can
qua xử trí. Nhưng nhớ rằng đã đính ước thông hiếu hơn hai mươi năm, cũng không
nhất thiết vì việc đấy mà vứt bỏ hết lời thề trước, nên phê chuẩn cho Các quốc
tổng lí sự vụ nha môn qua lại hội họp với sứ Pháp ở kinh, dụ tình kể lí đến hai
ba lần. Ngày 24 tháng 5 nhuận, lại giáng chỉ dụ, lệnh chiếu theo điều ước mà
triệt binh. Tỏ rõ chữ tín là để bảo toàn cục diện hòa bình, thực là hết sức
nhân nghĩa. Người Pháp rốt cuộc trước sau cậy lời giả dối, đòi hỏi binh phí, mặc
sức lấn ép, rồi vào ngày 15 tháng 6 chiếm cứ pháo đài núi Cơ Long ở Đài Bắc, bị
Lưu Minh Truyền đón đánh nên thua trận. Ngày 3 tháng này, bọn Hà Kính vừa tiếp
Lãnh sự bản quốc để hội họp việc khai chiến, nhưng quân Pháp đã từ Mã Vĩ công
kích trước, phá hỏng mấy chiếc thuyền binh, thuyền buôn. Tuy quan quân đốt cháy
thuyền Pháp, đánh hỏng thuyền sấm sét và bắn chết binh quan nước Pháp tại trận,
nhưng vẫn chưa trừng phạt đủ đâu. Nếu lại bỏ qua sự bao dung của ta, thì làm
sao rõ công luận mà thuận lòng người? Đặc cách yết thị tình tiết vô lí của bọn
ngươi để bố cáo thiên hạ.”
Tháng 8, dụ Sầm Dục Anh đôn đốc Lưu Vĩnh Phúc và các doanh
biên phòng giành lại Bắc Kỳ, đồng thời dụ Phan Đỉnh Tân răn các quân biên phòng
liên lạc thanh thế, chia đường cùng tiến. Đề đốc Tô Nguyên Xuân đánh nhau với
quân Pháp ở huyện Lục Ngạn, thắng được. Tháng 10, Nội các Học sĩ Chu Đức Nhuận
tâu: “Quan quân tiến đánh Việt Nam nên dùng chính binh khống chế quân ở Hà Nội,
dùng riêng kỳ binh theo đường Xa Lý đến Lão Qua, qua Ai Lao để ngầm
đánh úp Thuận Hóa, mộ thổ nhân biên giới ở Vân Nam, ắt sẽ đủ sức.” Xuống chỉ
giao Vân Nam Đề đốc xem xét trù hoạch.
Tháng ấy, Tô Nguyên Xuân đánh nhau với người Pháp ở xã Chỉ
Tác, chém 4 tên lính Pháp tại trận. Tháng 11, quân của Vương Đức Bảng đại bại ở
Phong Cốc, Tô Nguyên Xuân không đến cứu viện. Quân của Đường Cảnh Tung, Lưu
Vĩnh Phúc và Đinh Hòe tấn công Tuyên Quang, dốc sức đánh, thắng lớn, nên xuống
chiếu ban thưởng. Ngày 19 tháng 12, quân Pháp tấn công Cốc Tùng. Vương Đức Bảng
trong trận thua ở Phong Cốc oán quân họ Tô không cứu mình, vì thế cũng không đi
cứu. quân họ Tô thua chạy rút về Uy Pha, Lạng Sơn giới nghiêm. Hoàng đế mệnh
Phùng Tử Tài trợ giúp việc quân ngoài cõi Quảng Tây. Ngày 29, quân Pháp tấn
công Lạng Sơn, chiếm được. Bọn Phan Đỉnh Tân rút về đóng ở Trấn Nam quan, Long
Châu chấn động. Đường Cảnh Tung, Lưu Vĩnh Phúc, Đinh Hòe tấn công Tuyên Quang
hơn một tháng không hạ được. Khi Lạng Sơn thất thủ, Sầm Dục Anh lo quân của bọn
Cảnh Tùng bị chặn cứu viện phía sau, nên lệnh chớ được liều lĩnh. Cảnh Tùng
không nghe. Phùng Tử Tài đánh nhau với quân Pháp ở Văn Uyên, hai bên đều có
thương vong.
Ngày 9 tháng giêng năm thứ 11 (1885), quân Pháp tấn công
Trấn Nam quan, oanh tạc cửa quan rồi rút. Đề đốc Dương Ngọc Khoa chết trận.
Phan Đỉnh Tân rút về đóng ở Hải Thôn. Hoàng đế mệnh lập công chuộc tội. Nguyên
Xuân rút về đóng ở Mộ Phủ. Vương Đức Bảng tự phụ rằng mình là túc tướng ở Giang
Tây, nhiều lần bị giục đi cứu mà không đến. Đỉnh Tân hặc tội hắn, nên giáng chức,
giao quân bản bộ về cho Nguyên Xuân quản hạt.
Quân Pháp tấn công Lưu Vĩnh Phúc ở Tuyên Quang, quân của
Vĩnh Phúc tan vỡ. Đường Cảnh Tùng rút về đóng ở Mục Mã, phòng thủ Khâm, Liêm
nghiêm ngặt. Bành Ngọc Lân xin điều quân Phùng Tử Tài phòng thủ Quảng Đông, nên
triều đình ra chỉ lệnh Đỉnh Tân bàn bạc. Đỉnh Tân vốn không ưa Tử Tài, nên mệnh
Tử Tài đi. Tử Tài thấy việc phòng thủ quan ngoại khẩn cấp, không chịu rút, nên
Ngọc Lân lệnh tập trung phòng thủ Quảng Tây. Quân của Đỉnh Tân lâu ngày không lập
công nên cách chức hắn, lấy Lý Bỉnh Hoành làm Hộ lý Quảng Tây Tuần phủ, Tô
Nguyên Xuân làm Đốc biện Quảng Tây quân vụ.
Quân Pháp đã phá hủy Trấn Nam quan, bắt quân dân lấp sông
để vượt. Toàn tỉnh Quảng Tây chấn động. Tử Tài đến, dốc sức giữ yên ổn. Tử Tài
đóng lâu ở Việt Tây, vốn có uy huệ, dân Quảng Tây, Việt Nam thương nhớ, nên
lòng người mới yên. [Tử Tài] bèn chặn các cửa ải trong vòng 10 lí từ cửa quan,
khóa chặt hai dãy núi đông tây, xây tường dài hơn 3 lí, bên ngoài đào hào sâu,
làm kế thủ chặt. [Tử Tài] tự cầm quân bản bộ đóng ở đấy, rồi lệnh Vương Hiếu Kỳ
cầm quân đóng phía sâu làm thế ỷ giác. Quân Pháp nói phao sắp phạm cửa quan,
thì Tử Tài liệu rằng chúng ắt sẽ đến trước hẹn, bèn bàn việc phát binh đánh địch
trước. Đỉnh Tân ngăn lại, Tử Tài ra sức tranh cãi, rồi đem quân của Vương Hiếu
Kỳ trong đêm phạm lũy địch, giết địch rất nhiều. Khi quân Pháp ở Lạng Sơn đánh
đến Trấn Nam quan, Tử Tài thề với mọi người rằng: “Pháp vào cửa quan lần nữa
thì ta còn mặt mũi nào nhìn người Việt? Phải chống cự đến chết!” Ai nấy sĩ
khí phấn chấn. Pháp tấn công tường dài, bắn pháo mãnh liệt. Tử Tài dẫn các thống
tướng đứng lên tiếp chiến, gặp ai rút về sau đều giết đi. Đánh hăng quá, Tử Tài
tự mở vách dẫn hai con trai là Tương Vinh, Tương Hoa xông thẳng vào giữa địch.
Các quân thấy Tử Tài đã 70 tuổi mà gắng mình đánh địch nên đều cảm kích phấn chấn,
quyết tử chiến. Vương Hiếu Kỳ, Trần Gia đem bọn bộ tướng Phan Doanh, Trương
Xuân Phát đi theo sau, quân của Vương Đức Bảng cũng đến giáp công, bắn chết
lính Pháp vô số. Đánh nhau dữ dội hai ngày, quân Pháp hết đạn nên đại bại, tháo
chạy. Tử Tài cầm binh tấn công Văn Uyên, quân Pháp bỏ thành chạy. Các quân chia
ba đường tấn công Lạng Sơn; Hiếu Kỳ, Đức Bảng đánh hết sức, thắng liền nhiều trận.
Ngày 13 tháng 2, hạ được Lạng Sơn, quân Pháp bỏ chạy cả. Tử Tài tiến quân hạ Lạp
Mộc, đánh vào Lang Giáp. Vương Hiếu Kỳ tiến quân đến Quý Môn quan, lấy lại hết
đất đóng quân năm trước. Dân Việt lập 5 đại đoàn trung nghĩa gồm hơn 20.000 người,
đều dựng cờ xí của quân họ Phùng. Tây Cống cũng nghe tin mà đến dâng lễ. Từ khi
thông biển đến nay, Trung Quốc đánh với nước ngoài chỉ có chiến dịch này là thắng
lớn, là nhờ công của Tử Tài.
Sáu nghìn lính Pháp phạm phủ Lâm Thao, lại chia làm hai đội:
một đi về bắc đến Kha Lĩnh, An Bình; một đi về nam đến Miến Vượng, Mãnh La. Vân
Nam Đề đốc Sầm Dục Anh mệnh Sầm Dục Bảo, Lý Ứng Trân chặn đường phía bắc, Vương
Văn Sơn chặn đường phía nam, rồi tự cầm quân chặn đường giữa, đều bắt giết được
giặc. Quân Pháp bèn hợp lại ở phủ Lâm Thao. Quân Vân Nam chặn đánh ở hai đường
nam bắc cũng hồi quân hiệp công, chém 5 tướng Pháp tại trận, quân Pháp tan vỡ.
Bấy giờ binh hạm Pháp chiếm Bành Hồ ở Đài Loan. Lạng Sơn
đã đại thắng, người Pháp cố nhờ người Anh là Hách Đức đến chỗ Lý Hồng Chương
nghị hòa, nói rằng người Pháp sẽ giao trả Cơ Long, Bành Hồ, hai bên triệt binh,
không đòi binh phí. Hồng Chương tâu rằng: “Bành Hồ đã mất thì Đài Loan ắt
không giữ được. Nên dựa vào trận thắng ở Lạng Sơn để kết hòa ước, thì Pháp sẽ
không yêu cầu gì nữa.” Triều đình ngheo theo lời bàn, lập tức mệnh đình chiến.
Trận Lâm Thao diễn ra sau khi đình chiến, vì lời dụ bằng điện tín chưa đến chỗ
quân. Hồng Chương vội xin kí kết, lệnh các tướng đều trở về biên giới. Tướng sĩ
nắm cổ tay mà thống phẫn, không chịu về. Bành Ngọc Lân, Trương Chi Động nhiều lần
gửi điện tranh cãi. Hoàng đế thấy điều ước Thiên Tân khó lòng thất tín, nên dụ
nghiêm phải tuân thủ. Người Pháp yêu cầu đuổi Lưu Vĩnh Phúc khỏi Việt Nam,
Trương Chi Đồng bèn dựa theo đó lệnh Vĩnh Phúc về đóng ở Tư Minh, Khâm Châu.
Vĩnh Phúc kiên quyết không chịu đi, Đường Cảnh Tung lo sợ nên ép hắn. Triều
đình ra chỉ trách cứ nghiêm, [Vĩnh Phúc] mới miễn cưỡng về Quảng Đông, nhận chức
Tổng binh. Phùng Tử Tài xin được đôn đốc việc biên phòng ở Liêm, Khâm.
Điều ước đã thành, Việt Nam về với sự bảo hộ của nước
Pháp.
***
Chú thích
1. Sử sách nước ta không nhắc đến Mạc Kính Diệu và Mạc Nguyên Thanh, nhưng dựa vào ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục rằng Mạc Kính Vũ là lãnh đạo lực lượng họ Mạc tại Cao Bằng lúc bấy giờ, thì một trong hai cái tên này có thể là tên khác của Kính Vũ.
2. Khâm tai: Từ dùng ở cuối các chiếu chỉ của vua chúa thời xưa, nghĩa là “nhận lấy mà làm theo”.
3. Theo Cương mục, vua Lê Thần Tông lúc sắp qua đời năm 1662 phế bỏ Thái tử Duy Tào (vốn không phải con ông) để lập con thứ là Duy Vũ làm người nối dõi, tức là Lê Huyền Tông. Lê Huyền Tông vào năm 1663 sai sứ sang thông hiếu với nhà Thanh, khớp với ghi chép của Thanh sử cảo. Như vậy “Duy Hy” là Lê Huyền Tông, còn “Duy Đề” có lẽ là Duy Tào.
4. Chỉ việc Ngô Tam Quế được phong Bình Tây vương, trấn thủ Vân Nam.
5. Trung hiếu thủ bang: Nghĩa là “trung hiếu giữ nước”.
6. Mạc Kính Quang: Sử sách Việt Nam không nhắc đến nhân vật này.
7. Biểu lí: Một đơn vị tính vải vóc thời Minh, Thanh.
8. Thổ ty: Còn gọi là thổ quan, chỉ các thủ lĩnh địa phương vùng biên viễn được nhận chức tước từ triều đình, nhưng vẫn giữ tự trị nhất định trong vấn đề nội bộ.
9. Vương tự tử: Con nối dõi của một vị vương.
10. Tập phong: Đời sau kế thừa tước phong của đời trước.
11. Nhật Nam thế tộ: Nghĩa là “Nhật Nam đời đời hưởng phúc”.
12. Tấn: Nơi đóng quân trấn giữ, giống như “đồn”.
13. Duyên Xưởng: Nghĩa là “mỏ chì”.
14. Sách: Nghĩa đen là “hàng rào”, là một tên gọi dùng để chỉ các làng bản của người dân tộc thiểu số ở miền núi nước ta và nam Trung Quốc.
15. Thổ dũng: Chỉ dân binh các vùng biên viễn.
16. Khách trưởng: Chức quan quản lí dân ngụ cư.
17. Lộc Lại, Thông Nỉ: Hai cái tên này có lẽ đều là đọc trại từ “Đồng Nai”, lúc bấy giờ chỉ chung vùng Đông Nam Bộ nước ta.
18. Đề trấn: Chỉ chung các chức Đề đốc và Tổng binh thời Thanh.
19. Hoàng Công Toản: Con trai Hoàng Công Chất, thủ lĩnh cuộc nổi dậy chống chính quyền Lê-Trịnh ở vùng Tây Bắc Bộ lúc bấy giờ, không phải dòng dõi họ Mạc như sử Thanh chép.
20. Đường quan: Chỉ chung các chức Thượng thư, Thị lang đứng đầu bộ thời Minh, Thanh.
21. Nam Giao bình hàn: “Che chở Nam Giao”. Nam Giao là một địa danh cổ trong huyền sử Trung Hoa, về sau thường được đánh đồng với lãnh thổ nước ta.
22. Trên thực tế Thái Đức là niên hiệu của Nguyễn Nhạc.
23. Đoàn luyện: Một hình thức dân binh xưa.
24. Ông hoàng ty Duy Cận: Lê Duy Cận là con thứ tư của vua Lê Hiển Tông, được Tây Sơn lập làm Giám quốc, cai quản Bắc Hà trên danh nghĩa. “Ông hoàng ty” có lẽ là phiên âm từ tên Nôm “ông hoàng tử” hoặc “ông hoàng thứ”.
25. Cờ quân Hán: Tức là các đơn vị người Hán trong quân Bát Kỳ của triều Thanh.
26. Tá lĩnh: Chức chỉ huy nhỏ trong quân Bát Kỳ.
27. Câu này sót một vế về việc nhà Thanh trả lại người Việt tị nạn trên đất mình.
28. Lê Duy Hôn: Tức Lê Duy Chỉ, em trai Chiêu Thống. Duy Chỉ liên kết với vương quốc Vientiane/Vạn Tượng để chống lại Tây Sơn, nhưng bị vua Quang Trung đánh bại.
29. Ô tào: Tiếng Việt gọi là “tàu ô”, là loại thuyền mành đi biển phổ biến ở nam Trung Quốc và Việt Nam xưa”.
30. Đĩnh tặc: Tên gọi nhà Thanh dùng để chỉ cướp biển ở miền nam Trung Quốc lúc bấy giờ, vì sử dụng các loại thuyền nhỏ cơ động (“đĩnh”) nên có tên ấy.
31. Nông Nại: Đọc trại từ “Đồng Nai”, bấy giờ chỉ chung vùng Đông Nam Bộ.
32. Tề ngôi: Nghĩa đen là “cột buồm ngang”, một tên gọi với hải tặc biển Đông lúc bấy giờ.
33. Quế Hải: Một tên gọi của vùng biển đông nam và nam Trung Quốc.
34. Nguyễn Mỗ: “Mỗ” là một cách xưng hô xưa để tránh tên húy. Ở đây không xác định được cụ thể là ai.
35. Những chuyện Nguyễn Phúc Ánh là dòng dõi nhà Lê hay có vợ người Xiêm chép ở đây đều không có thực.
36. Cao Man: Tức là Cao Miên hay Campuchia. Nhà Nguyễn vì kỵ húy vua Thiệu Trị mà đổi cách gọi thành Cao Man.
37. Khánh Hòa: Nguyên văn viết nhầm thành Quảng Hòa.
38. Tử cung: Chỉ linh cữu của vua chúa.
39. Nga La Địa: Tức Galatée, một tàu buôn Pháp cập bến Đàng Trong năm 1720. Sử ta không ghi lại sự kiện này.
40. Ở đây tác giả đã nhầm lần Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh.
41. Địch A Thị: Không rõ là ai.
42. Chỉ việc 2 tàu Pháp vào cảng Đà Nẵng, đánh chìm 5 thuyền chiến và gây thiệt hại nặng cho các pháo đài của quân Nguyễn. Diễn biến được ghi chép trong Đại Nam thực lục.
43. Hạ Giao Chỉ: Dịch từ tên tiếng Pháp “Basse Cochinchine”, chỉ vùng Nam Kỳ.
44. Ba cửa khẩu: Gồm Đà Nẵng, Ba Lạt (cửa chính sông Hồng) và Quảng Yên (nay là Quảng Ninh).
45. Tản dũng: Một tên gọi của binh lính địa phương thời Thanh.
46. Người Lão: Một tên gọi chung dành cho các sắc dân thiểu số miền núi ở nước ta.
47. Phản nghịch người Hồi: Chỉ cuộc nổi dậy của người Hồi giáo ở Vân Nam từ 1856 đến 1873.
48. Bảo Hải: Tức Frederic Bourée, đại diện chính phủ Pháp trên bàn đàm phán với nhà Thanh trong giai đoạn đầu của chiến dịch xâm lược Bắc Kỳ lần hai.
49. Tạ Mãn Lộc: Tức Robert de Samalle, tham tán ngoại giao Pháp tại Bắc Kinh từ 1880 đến 1884.
50. Đoái Lợi Cổ: Tức Arthur Tricou, đại sứ Pháp tại Nhật Bản, được giao tạm tiếp nhận công tác đàm phán với nhà Thanh trong năm 1883.
51. Đức Lý: Tức Đức Lý Cổ, phiên âm khác của Đoái Lợi Cổ.
52. Trên thực tế vua Kiến Phúc là con ruột Kiên quốc công Nguyễn Phúc Hồng Cai, không phải con của Tôn Thất Thuyết.
53. Tuất khoản: Những khoản đền bù cho lính chết trận.
54. Tổng lí các quốc sự vụ nha môn: Cơ quan phụ trách ngoại giao với các nước phương Tây của nhà Thanh.
(Dịch thuật và chú thích:
Quốc Bảo)
Comments
Post a Comment