Hung Nô truyện (hạ)
Hán thư – quyển 94
***
Hô Hàn Tà thiền vu về đình được mấy
tháng thì bãi binh, cho về hết đất cũ, rồi tìm anh mình Hô Đồ Ngô Tư (呼屠吾斯) lẩn trong dân gian, lập làm Tả cốc
lê vương. [Hô Hàn Tà] sai người báo cho quý nhân của Hữu hiền vương, hòng muốn
giết Hữu hiền vương. Mùa đông ấy, Đô Long Kỳ và Tả hiền vương cùng lập Nhật Trục
vương Bạc Tư Đường làm Đồ Kỳ thiền vu, phát mấy vạn binh tập kích Hô Hàn Tà thiền
vu ở phía đông. Binh của Hô Hàn Tà thiền vu thua chạy. Đồ Kỳ thiền vu trở về, lấy
con trai trưởng Đô Đồ Ngô Tây (都塗吾西) làm Tả cốc lê
vương, con trai nhỏ Cô Mậu Lâu Đầu (姑瞀樓頭) làm Hữu cốc lê vương, ở lại đình của Thiền
vu.
Mùa thu năm sau, Đồ Kỳ thiền vu sai anh
trai Nhật Trục vương Tiên Hiền Đàn là Hữu Áo Kiện vương, cùng Ô Tịch đô úy (烏藉都尉) mỗi người đem 20.000 kỵ đóng ở miền
đông để phòng bị Hô Hàn Tà thiền vu. Bấy giờ Hô Yết vương ở miền tây đến bàn
mưu với Duy Lê đương hộ (唯犁當戶), cùng gièm pha Tả
hiền vương, nói hắn muốn tự lập làm Ô Tịch thiền vu. Đồ Kỳ thiền vu giết cha
con Tả hiền vương; về sau biết là oan, lại giết Duy Lê đương hộ. Vì thế Hô Yết
vương lo sợ rồi làm phản, tự lập làm Hô Yết thiền vu. Hữu Áo Kiện vương nghe
tin, liền tự lập làm Xa Lê thiền vu (車犁). Ô Tịch
đô úy cũng tự lập làm Ô Tịch thiền vu, tất cả năm Thiền vu.
Đồ Kỳ thiền vu tự đem binh đánh Xa Lê
thiền vu phía đông, sai Đô Long Kỳ đánh Ô Tịch. Ô Tịch, Xa Lê đều thua, chạy về
tây bắc, hợp binh với Hô Yết thiền vu được 40.000 người. Ô Tịch, Hô Yết đều bỏ
hiệu Thiền vu, cùng dốc sức tôn phò Xa Lê thiền vu. Đồ Kỳ thiền vu nghe tin nên
sai Tả đại tướng, Đô úy đem 40.000 kỵ đóng ở miền đông để phòng bị Hô Hàn Tà
thiền vu, rồi tự đem 40.000 kỵ đánh Xa Lê thiền vu phía tây. Xa Lê thiền vu
thua, chạy về tây bắc. Đồ Kỳ thiền vu liền dẫn quân về tây nam, ở lại đất Hấp
Đôn (闟敦).
Năm sau, Hô Hàn Tà thiền vu khiển em
trai Hữu cốc lê vương tập kích binh đóng giữ của Đồ Kỳ thiền vu ở phía tây, bắt
giết hơn vạn người. Đồ Kỳ thiền vu nghe tin liền tự đem 60.000 kỵ đánh Hô Hàn Tà
thiền vu. Đi được 7 lí, chưa đến đất Nhục Cô (嗕姑) thì gặp khoảng 40.000 binh của Hô Hàn Tà thiền
vu, nên giao chiến. Đồ Kỳ thiền vu thua trận, tự sát. Đô Long Kỳ bèn cùng con
trai nhỏ của Đồ Kỳ là Hữu cốc lê vương Cô Mậu Lâu Đầu (姑瞀樓頭) chạy sang Hán. Xa Lê thiền vu đầu hàng
Hô Hàn Tà thiền vu ở phía đông. Tả đại tướng của Hô Hàn Tà thiền vu là Ô Lệ Khuất
(烏厲屈) cùng cha là Hô Tốc Lõa Ô Lệ Ôn Đôn (呼遫累烏厲溫敦) đều thấy Hung Nô loạn, nên đem dân
chúng mấy vạn người về nam hàng Hán. Phong Ô Lệ Khuất làm Tân Thành hầu, Ô Lệ
Ôn Đôn làm Nghĩa Dương hầu.
Bấy giờ con trai của Lý Lăng lại lập Ô
Tịch đô úy làm Thiền vu. Hô Hàn Tà thiền vu bắt Ô Tịch chém đi, rồi lại đóng đô
ở đình của Thiền vu, nhưng mất mấy vạn dân chúng. Em họ Đồ Kỳ thiền vu là Hưu
Tuần vương (休旬王) đem năm sáu
trăm kỵ dưới trướng đánh giết Tả đại thả cừ, gom binh của hắn rồi đến đất hữu
phương, tự lập làm Nhuận Chấn thiền vu (閏振) ở biên giới phía tây. Về sau anh
trai Hô Hàn Tà thiền vu là Tả hiền vương Hô Đồ Ngô Tư
cũng
tự lập làm Chất Chi Cốt Đô Hầu thiền vu ở biên giới phía đông.
Hai năm sau, Nhuận Chấn thiền vu đem
quân đánh Chất Chi thiền vu phía đông. Chất Chi thiền vu đánh trả, giết được
Nhuận Chấn, gom binh của hắn rồi tiến công Hô Hàn Tà. Hô Hàn Tà bị đánh phá,
quân bỏ chạy. Chất Chi đóng đô ở đình của Thiền vu.
Sau khi Hô Hàn Tà thất bại, Tả Y Trật
Ty vương (伊秩訾王) bày kế cho Hô
Hàn Tà, khuyên xưng thần vào chầu phụng sự Hán, theo Hán để xin giúp, như vậy
Hung Nô mới định. Hô Hàn Tà hỏi các đại thần, họ đều nói:
“Không được. Tục của Hung Nô vốn đề cao khí lực
mà xem thấp phục dịch, lấy việc chiến đấu trên ngựa để dựng nước, nên có uy
danh với Bách Man. Chết khi chiến đấu là cái chết của tráng sĩ. Nay anh em
tranh nước, không vào tay anh thì vào tay em, tuy chết vẫn có uy danh, con cháu
làm trưởng các nước lâu dài. Hán tuy mạnh vẫn không thể thôn tính Hung Nô. Sao
phải vứt bỏ chế độ tiên cổ, thần sự cho Hán, nhục nhã với các Thiền vu trước, bị
các nước chê cười! Tuy như vậy là yên, nhưng làm sao làm trưởng Bách Man được nữa!”
Tả
Y Trật Ty nói:
“Không đúng. Mạnh yếu có lúc, nay Hán đang thịnh,
Ô Tôn và các nước thành quách làm thần thiếp. Từ Thả Lặc Hầu thiền vu đến nay,
Hung Nô ngày một yếu, không thể thu phục [Ô Tôn]. Tuy quật cường ở đây, nhưng
chưa từng một ngày ở yên. Nay phụng sự Hán thì yên ổn, không phụng sự Hán thì
nguy vong, còn kế nào hay hơn thế!”
Các
đại nhân tranh cãi hồi lâu. Hô Hàn Tà nghe theo kế ấy, dẫn dân chúng về nam đến
gần biên giới, khiển con trai là Tả hiền vương Thù Lũ Cừ Đường (銖婁渠堂) vào chầu. Chất Chi thiền vu cũng khiển
con trai là Tả hiền vương Đại tướng Câu Ư Lợi Ái (駒於利受) vào làm con tin. Năm ấy là năm Cam Lộ
thứ 1 (53 TCN).
Năm sau (52 TCN), Hô Hàn Tà thiền vu nạp
khoản ở ải Ngũ Nguyên [1], xin tháng giêng năm thứ 3 sẽ vào chầu. Hán khiển Xa
Kỵ đô úy Vệ Xương đi đón, phát 2.000 kỵ của bảy quận bày trận dọc đường. Thiền
vu tháng giêng vào chầu Thiên tử ở cung Cam Tuyền [2]. Hán ban cho lễ đặc biệt,
được ngồi trên các chư hầu vương, khi tán tụng hay bái yết chỉ xưng thần mà
không nêu tên. Ban cho mũ đai, xiêm áo, tỷ vàng dây thao lục, kiếm nạm ngọc,
đao đeo eo, cung 1 cây, tên 4 mũi, mịch kích 10 ngọn, xe có ghế 1 cỗ, yên cương
1 bộ, ngựa 15 con, vàng 20 cân, tiền 20 vạn, y phục 77 bộ, các thứ gấm thêu,
nhiễu vóc, lụa là 8.000 tấm, tơ 6.000 cân. Làm lễ xong, sai sứ giả dẫn Thiền vu
đi trước, nghỉ lại ở Trường Bình [3]. Hoàng thượng từ Cam Tuyền đến nghỉ ở cung
Trì Dương. Khi Hoàng thượng lên Trường Bình, xuống chiếu cho Thiền vu khỏi bái
yết, quần thần như tả hữu Đương hộ đều được xếp chỗ xem, cùng với mấy vạn quân
trưởng và vương hầu Man Di cùng nghênh đón dưới cầu sông Vị, xếp hàng bên đường.
Khi Hoàng thượng lên cầu sông Vị, họ đều hô “Vạn tuế”. Thiền vu tới phủ đệ, ở lại hơn một tháng rồi cho về nước.
Thiền vu tự xin nguyện được ở lại ngoài ải Quang Lộc [4], có nguy cấp thì bảo vệ
thành Thụ Hàng của Hán. Hán khiển Trường Lạc Vệ úy Cao Xương hầu Đổng Trung, Xa
Kỵ Đô úy Vệ Xương đem 16.000 kỵ, lại phát hàng nghìn binh mã các quận biên giới
đưa Thiền vu rời ải Kê Lộc ở Sóc Phương [5]. Xuống chiếu cho bọn Trung ở lại bảo
vệ Thiền vu, giúp diệt kẻ không phục. Lại chở thóc gạo, lương khô ở biên giới trước
sau 34.000 hộc đến cấp để đủ cái ăn.
Năm ấy, Chất Chi thiền vu cũng khiển sứ
phụng hiến, Hán đãi ngộ rất hậu. Năm sau (51 TCN), hai Thiền vu đều khiển sứ
triều hiến, Hán đối đãi sứ của Hô Hàn Tà tốt hơn. Năm sau (50 TCN), Hô Hàn Tà
thiền vu lại vào chầu. Ban lễ như trước, gia thêm 110 bộ áo, 9.000 tấm gấm lụa,
8.000 cân tơ. Vì đã có binh đóng giữ, nên không phát kỵ đưa về nữa.
Ban đầu Chất Chi thiền vu thấy rằng Hô
Hàn Tà hàng Hán, binh yếu không thể tự trở về, liền dẫn dân chúng về tây, định đánh
dẹp đất hữu phương. Em trai nhỏ của Đồ Kỳ thiền vu vốn gần gũi Hô Hàn Tà, cũng
bỏ sang đất hữu phương, thu binh còn sót của hai anh mình được mấy nghìn người,
tự lập làm Y Lợi Mục thiền vu (伊利目). [Y Lợi Mục] giữa
đường gặp phải Chất Chi nên giao chiến. Chất Chi giết Y Lợi Mục, gom binh của hắn
được hơn 50.000 người. [Chất Chi] nghe tin Hán xuất binh lương giúp Hô Hàn Tà,
nên bèn ở lại đất hữu phương; nhưng tự lượng sức mình không đủ định Hung Nô,
bèn dời về tây gần Ô Tôn. [Chất Chi] muốn hợp sức với nước ấy nên khiển sứ sang
gặp Tiểu côn mi Ô Tựu Đồ (烏就屠). Ô Tựu Đồ thấy
Hô Hàn Tà được Hán ủng hộ, Chất Chi là kẻ trốn chạy, muốn đánh Chất Chi để lấy
lòng Hán, bèn giết sứ của Chất Chi, đem đầu đến trị sở Đô hộ, rồi phát 8.000 kỵ
đón đánh Chất Chi. Chất Chi thấy Ô Tôn binh nhiều, sứ mình lại không trở về, nên
đem binh đến đánh Ô Tôn, phá được. Nhân đó đánh Ô Yết (烏揭) phía bắc; Ô Yết hàng. Lại phát binh
phá Kiên Côn (堅昆) phía tây, thu
hàng Đinh Linh phía bắc, thôn tính hai nước ấy. [Chất Chi] nhiều lần khiển binh
đánh Ô Tôn, thường thắng. Kiên Côn cách đình của Thiền vu 700 lí về phía đông,
cách Xa Sư 500 lí về phía nam, Chất Tri đóng đô lại ở đấy.
Khi Nguyên đế mới lên ngôi, Hô Hàn Tà
thiền vu lại dâng thư nói dân chúng đói khổ. Hán xuống chiếu cho các quận Vân
Trung, Ngũ Nguyên chở 20.000 hộc ngũ cốc đến cấp. Chất Chi tự thấy đường xa, lại
oán Hán ủng hộ Hô Hàn Tà, nên khiển sứ dâng thư xin lấy con mình về. Hán khiển
Cốc Cát đưa về, thì Chất Chi giết Cát. Hán không thấy tin tức của Cát, mà người
Hung Nô đầu hàng nói rằng đã bị Âu Thoát giết cả. Khi sứ của Hô Hàn Tà thiền vu
đến, Hán liền quở trách rất gắt.
Năm sau (48 TCN), Hán khiển Xa kỵ Đô
úy Vệ Xương, Quang lộc đại phu Trương Mãnh đưa con của Hô Hàn Tà thiền vu về và
tìm kiếm bọn Cát; nhân đó xá tội, không để tự nghi ngờ. Xương, Mãnh thấy dân
chúng của Thiền vu đông đúc giống như cầm thú ngoài biên giới, Thiền vu đủ sức
tự vệ, không sợ Chất Chi. Nghe nói đại thần nước ấy đa phần khuyên Thiền vu trở
về bắc, sợ sau khi về bắc lại cắt giao ước, nên Xương, Mãnh liền cùng minh ước
rằng: “Từ nay trở đi Hán với Hung Nô hợp
thành một nhà, đời đời chớ được lừa nhau hay đánh nhau. Có kẻ trộm cướp thì báo
nhau để trị tội đền của; có giặc thì phát binh giúp nhau. Hán và Hung Nô ai bội
ước trước, trời đất sẽ không tha. Lệnh con cháu đời đời làm trọn như lời thề.”
Xương, Mãnh cùng Thiền vu và đại thần đều lên ngọn núi phía đông sông Nặc (諾), cắt tiết con ngựa trắng. Thiền vu
dùng dao kinh lộ và lưu lê vàng [6] khuấy rượu, lấy chiếc chén làm từ đầu Nguyệt
Thị vương từ thời Lão Thượng thiền vu để cùng uống máu ăn thề. Khi Xương, Mãnh
về tâu lại việc ấy, công khanh nghị giả cho rằng: “Thiền vu giữ bờ cõi, làm phên dậu, dẫu có muốn về bắc vẫn không thể gây
nguy hại. Xương, Mãnh tự tiện đem con cháu đời đời nước Hán ăn thề với Di Địch,
bảo Thiền vu đem lời ác cáo lên với trời, là sỉ nhục quốc gia, tổn hại uy trọng,
không thể làm được. Nên khiển sứ sang tế cáo trời, cùng giải lời thề. Xương,
Mãnh đi sứ không có công trạng, tội rất bất đạo.” Hoàng thượng bỏ qua lỗi lầm,
có chiếu cho Xương, Mãnh được chuộc tội, khỏi phải giải lời thề. Sau này Hô Hàn
Tà rốt cuộc về đình phía bắc, người dân dần dần về theo, trong nước bèn định.
Chất Chi giết sứ, tự biết mình phụ Hán,
lại nghe nói Hô Hàn Tà mạnh thêm nên sợ bị tập kích, muốn dời đi xa. Gặp lúc
Khang Cư vương nhiều lần bị Ô Tôn làm khó nên cùng bày kế với các Hấp hầu, cho
rằng: “Hung Nô là nước lớn, Ô Tôn vốn phải phục thuộc. Nay Chất Chi thiền vu
khốn ách ở ngoài, có thể đón về biên giới phía đông, cho hợp binh lấy đất Ô Tôn
để lập, về lâu dài không phải lo Hung Nô.” Liền sai sứ đến Côn Kiên thông
ngữ với Chất Chi. Chất Chi vốn sợ [Hô Hàn Tà], lại oán Ô Tôn, nên khi nghe kế của
Khang Cư thì rất hài lòng, bèn cùng kết minh, dẫn binh về tây. Khang Cư cũng
khiển quý nhân đem mấy nghìn con lạc đà, lừa ngựa đón Chất Chi. Dân chúng của
Chất Chi dọc đường chết rét, chỉ còn khoảng 3.000 người đến được Khang Cư. Về
sau khi Đô hộ Cam Diên Thọ và Phó đô hộ Trần Thang phát binh thì Khang Cư chém
Chất Tri, chép ở truyện về Diên Thọ và Khang.
Khi Chất Tri đã bị giết, Hô Hàn Tà thiền
vu vừa mừng vừa sợ, dâng thư nói rằng: “Thường
mong yết kiến Thiên tử, nhưng thấy Chất Chi ở phương tây, sợ hắn cùng Ô Tôn đến
đánh thần, vì thế chưa đến Hán được. Nay Chất Chi đã bị diệt, nên nguyện vào
triều kiến.” Năm Cảnh Ninh thứ 1 (33 TCN), Thiền vu lại vào chầu. Ban lễ
như trước, gia thêm y phục, gấm, lụa, tơ, đều gấp nhiều thời Hoàng Long. Thiền
vu tự nói nguyện làm rể họ Hán để thành thân thích. Nguyên đế lấy người con gái
nhà lành trong hậu cung là Vương Tường (tự là Chiêu Quân) ban cho Thiền vu. Thiền
vu mừng rỡ, dâng thư nguyện giữ cõi từ Thượng Cốc về tây đến Đôn Hoàng, nối
truyền không dứt, xin bãi lại tốt phòng bị ở biên giới để nhân dân của Thiên tử
nghỉ ngơi. Thiên tử lệnh hữu ty bàn, nghị giả đều cho là tiện. Lang trung Hầu Ứng
quen việc biên giới, cho là không thể đồng ý. Hoàng thượng hỏi cớ trạng, thì Ứng
nói:
“Từ thời Chu, Tần trở đi, Hung Nô bạo kiệt,
xâm cướp bờ cõi. Khi Hán hưng, càng bị hại nhiều. Thần nghe nói biên giới phía
bắc đến Liêu Đông, bên ngoài có núi Âm, đông tây hơn nghìn lí, cây cỏ um tùm,
nhiều cầm thú. Mặc Đốn thiền vu vốn nương tựa trong đấy, sửa sang cung tên, ra
ngoài làm cướp, nên đấy là vườn của hắn vậy. Đến đời Hiếu Vũ, xuất quân chinh
phạt, đánh chiếm đất ấy, đuổi chúng về Mạc Bắc, dựng ranh giới, xây đình canh,
đắp thành ngoài, đặt lính thú để thủ lấy. Nhưng về sau biên cảnh được yên bình
nên ít dùng nữa. Mạc Bắc đất bằng, ít cây cỏ, nhiều đồi cát, Hung Nô đến cướp
thì thiếu nơi ẩn náu. Từ quan ải về nam phải lặn lội núi non, đi lại khó khăn.
Trưởng lão ở biên giới nói sau khi Hung Nô mất núi Âm, lúc đi qua chẳng bao giờ
không khóc. Nếu như bãi lính thú phòng bị ở quan ải, rõ ràng là lợi lớn của Di
Địch, không thể. Đấy là một điều vậy.
Nay thánh đức phủ rộng, trời che chở Hung Nô;
Hung Nô nhờ đội ơn mà sống sót, nên dập đầu xưng thần. Tính của Di Địch, lúc khốn
thì quy thuận, lúc mạnh thì kiêu nghịch, đấy là tính trời vậy. Trước kia đã bỏ
thành ngoài, giảm đình canh, thì nay nên cắt vừa đủ để trông chừng đốt lửa hiệu
mà thôi. Người xưa dù ở yên không quên chuyện nguy, nên không thể bãi nữa. Đấy
là hai điều vậy.
Trung Quốc có lễ nghĩa giáo hóa, có hình phạt
trị tội, mà dân ngu vẫn còn phạm điều cấm, huống hồ gì Thiền vu, làm sao ngăn tất
cả dân mình không phạm ước! Đấy là ba điều vậy.
Trung Quốc vẫn xây quan ải, cầu cống là để chế
ngự chư hầu, là để cắt đứt kì vọng của bề tôi vậy. Đặt quan ải, xếp lính thú chẳng
phải vì một mình Hung Nô không đâu, mà cũng vì hàng dân các thuộc quốc vốn là
người Hung Nô cũ, sợ họ nhớ chốn cũ mà trốn về. Đấy là bốn điều vậy.
Gần đây Tây Khương giữ cõi, giao thông với người
Hán. Nhưng quan dân hám lợi, xâm cướp súc vật, vợ con của họ, nên [Tây Khương] vì
thế mà oán hận, nổi dậy làm phản, đời đời không dứt. Nay bãi đồn trú thì sẽ sinh
khinh nhờn, dần dẫn đến phân tranh. Đấy là năm điều vậy.
Trước kia tòng quân nhiều người chết không về
được, con cháu nghèo khốn. [Không thể] một sớm vứt bỏ họ, cho Hung Nô làm thân
thích. Đấy là sáu điều vậy.
Nô tì của người biên giới sầu khổ, nhiều kẻ muốn
trốn, nói rằng ‘Nghe nói ở Hung Nô vui vẻ, không phải trông chừng lúc nào nguy
cấp!’ Thế rồi đã có bảy kẻ đã rời cõi. Đấy là bảy điều vậy.
Bọn đạo tặc, kiệt hiệt tụ tập phạm pháp, nếu
như cùng quẫn bỏ trốn về bắc thì không thể chế ngự. Đấy là tám điều vậy.
Từ khi dựng quan ải đến nay đã hơn trăm năm, nhưng
không phải đều đắp bằng đất. Có nơi nương theo mép núi, cây cối um tùm, đi qua
khe động cửa sông, mà cũng dần dần bằng phẳng. Binh lính sửa sang, công phí lâu
dài không thể kể hết. Thần e nghị giả không hiểu hết đầu đuôi nên nhất mực muốn
bỏ lính thú. Giả như khoảng mười năm trở đi, trăm năm đổ lại có biến, mà quan ải
đã đổ nát, đình canh đã mất sạch, phải phát binh sửa chữa, thì công lao nhiều đời
không thể khôi phục. Đấy là chín điều vậy.
Nếu như bãi lính thú, bỏ đình canh, cho Thiền
vu tự thủ ngự giữ cõi, thì hắn ắt có đức sâu với Hán, rồi sẽ thỉnh cầu không ngừng,
dù để mất lòng một chút cũng không thể lường được. Lộ sơ hở cho Di Địch là hỏng
sự bền vững của Trung Quốc. Đấy là mười điều vậy.
Thế
nên đây không phải là kế sách yên ổn lâu dài, uy chế Bách Man.”
Khi
lời tấu đáp lên, Thiên tử có chiếu rằng:
“Không
được bàn việc bãi quan ải nữa.”
Rồi
sai Xa Kỵ tướng quân dụ miệng với Thiền vu rằng:
“Thiền vu dâng thư mong bãi lại sĩ đồn thú ở
biên giới phía bắc, con cháu đời đời giữ cõi. Thiền vu hướng mộ lễ nghĩa, thế
nên tính kế rất hậu cho dân, đúng là sách lược lâu dài. Trẫm rất lấy làm khen
ngợi. Trung Quốc bốn phương có thành trì quan ải, không chỉ để phòng bị ngoài
cõi, mà cũng đề phòng bọn gian tà trốn khỏi Trung Quốc ra ngoài cướp bóc, nên
pháp độ rõ ràng để nắm được lòng dân. Kính dụ ý của Thiền vu, Trẫm không nghi
ngờ gì. Vì Thiền vu thấy không bãi ắt cho là quái lạ, nên sai Đại tư mã Xa Kỵ tướng
quân báo sớm cho Thiền vu.”
Thiền
vu tạ lỗi rằng:
“Ngu
dốt không biết kế lớn, may thay Thiên tử sai đại thần báo cho, thật hậu!”
Ban đầu, Tả Y Trật Ty vẽ kế cho Hô Hàn
Tà theo về Hán, cuối cùng an định được. Về sau có kẻ gièm pha Y Trật Ty tự cho
mình có công, thường hay ương ngạnh, nên Hô Hàn Tà nghi ngờ hắn. Tả Y Trật Ty
lo bị diệt, nên đem dân chúng hơn nghìn người hàng Hán. Hán lấy làm Quan nội hầu,
thực ấp 300 hộ, cho đeo ấn vương. Đến thời Cảnh Ninh, Hô Hàn Tà đến chầu, gặp
nhau với Y Trật Ty, tạ lỗi rằng: “Vương
bày kế rất hậu cho ta! Khiến Hung Nô được yên ổn đến nay là nhờ công của vương
vậy, đức ấy chẳng thể quên! Ta làm mất lòng vương, khiến vương bỏ đi không ngoảnh
nhìn lại, đều là lỗi của ta. Nay muốn biện bạch với Thiên tử, đón vương về đình.”
Y Trật Ty nói: “Thiền vu noi theo mệnh trời,
tự về với Hán, nên được yên ổn là nhờ thần linh của Thiền vu, nhờ Thiên tử giúp
đỡ, ta nào có công! Đã sang hàng Hán lại trở về Hung Nô, đấy là hai lòng vậy. Nguyện
làm kẻ hầu của Thiền vu ở Hán, không dám nghe mệnh.” Thiền vu xin bốn lần
mà không được, bèn về.
Vương Chiêu Quân hiệu là Hồ yên thị,
sinh một con trai là Y Đồ Trí Nha Sư (伊屠智牙師), làm Hữu Nhật Trục vương. Hô Hàn Tà
thiền vu lập được 28 năm, chết năm Kiến Thủy thứ 2 (31 TCN). Ban đầu Hô Hàn Tà ưa
thích hai con gái của anh trai Tả Y Trật Ty là Hô Diên vương. Người con gái lớn
làm Chuyên Cừ yên thị (顓渠閼氏), sinh hai con
trai: con lớn tên Thả Mạc Xa (且莫車), con thứ tên
Nang Tri Nha Tư (囊知牙斯). Người con gái
nhỏ làm Đại yên thị, sinh bốn con trai: con lớn là Điêu Đào Mạc Cao (雕陶莫皋), thứ là Thả Mi Tư (且麋胥), đều lớn hơn Thả Mạc Xa; hai con
trai nhỏ là Hàm (咸) và Lạc (樂), đều nhỏ hơn Nang Tri Nha Tư. Lại có
hơn mười con trai với các Yên thị khác. Chuyên Cừ yên thị cao quý, Thả Mạc Xa
được yêu mến. Khi Hô Hàn Tà bệnh sắp chết, muốn lập Thả Mạc Xa. Người mẹ là Chuyên
Cừ yên thị nói: “Hung Nô loạn hơn mười
năm, dai dẳng không dứt, nhưng nhờ cậy sức Hán nên lại được yên. Nay bình định
chưa lâu, nhân dân e ngại việc chiến đấu. Thả Mạc Xa nhỏ tuổi, bách tính chưa
theo, e nước lại nguy. Tôi và Đại yên thị là con một nhà, chi bằng lập Điêu Đào
Mạc Cao.” Đại yên thị nói: “Thả Mạc
Xa tuy nhỏ, nhưng có đại thần cùng nắm quốc sự. Nay bỏ sang lập hèn, đời sau ắt
loạn.” Thiền vu nghe theo kế của Chuyên Cừ yên thị, lập Điêu Đào Mạc Cao, hẹn
sẽ truyền nước cho em trai. Khi Hô Hàn Tà chết, Điêu Đào Mạc Cao lập làm Phúc
Chu Lũy Nhược Đê thiền vu (複株絫若鞮).
Phúc Chu Lũy Nhược Đê thiền vu lập,
khiển con trai là bọn Hữu Trí Lư Nhi vương Hề Hài Đồ Nô Hầu (右致盧兒王醯諧屠奴侯) vào làm con tin, lấy Thả Mi Tư làm Tả
hiền vương, Thả Mạc Xa làm Tả cốc lê vương, Nam Tri Nha Tư làm Hữu hiền vương.
Phức Chu Lũy thiền vu lại cưới Vương Chiêu Quân, sinh hai con gái: con gái lớn
Vân (云) làm Tu Bốc cư thứ (須卜居次), con gái nhỏ làm Đương Vu cư thứ (當于居次).
Năm Hà Bình thứ 1 (28 TCN), Thiền vu
khiển bọn Hữu Cao Lâm vương Y Tà Mạc Diễn (右皋林王伊邪莫演) phụng hiến ở triều vào tháng giêng. Khi
xong, khiển sứ giả đưa đến Bồ Phản (蒱反) [7] Dựa theo việc cũ, nhận người đầu hàng
[8]. Quang Lộc đại phu Cốc Vĩnh, Nghị lang Đỗ Khâm cho rằng:
“Khi Hán hưng, Hung Nô nhiều lần gây hại ở biên
giới, nên dùng vàng bạc chức tước để thưởng cho người đầu hàng. Nay Thiền vu hạ
mình xưng thần, liệt làm ngoại phiên, khiển sứ triều hạ, không có hai lòng, nhà
Hán tiếp đón, nên dần đổi khác xưa. Nay đã nhận sính cống của Thiền vu làm tin,
mà đổi sang đón kẻ bề tôi bỏ trốn của họ, là tham được một người mà mất lòng một
nước, giúp bề tôi có tội mà bỏ bậc vua mộ nghĩa vậy. Ví như Thiền vu mới lập,
muốn gửi thân vào Trung Quốc nhưng chưa biết lợi hại, nên sai riêng Y Tà Mạc Diễn
trá hàng để dò trước lành dữ, thì nhận vào chỉ thiệt đức trở thiện. Nay Thiền
vu tự dâng sớ nói không hòa hợp với quan lại biên giới, có kẻ cho là lời phản
gián, muốn nhân đó mà sinh hiềm khích. Nhận vào thì hợp với kế sách của chúng,
khiến chúng quy tội được rồi đòi hỏi. Đấy thực là nguồn cơn cho an nguy của biên
cảnh, là khởi đầu cho động tĩnh của quân lữ, nên không thể không làm rõ. Chi bằng
chớ nhận, để tỏ rõ chữ tín như nhật nguyệt, chặn đứng mưu lừa dối, vỗ về lòng
nương tựa, là tiện.”
Khi
lời tâu đưa lên, Thiên tử nghe theo, khiển Lang trung tướng Vương Thuấn sang hỏi
sự trạng đầu hàng. Y Tà Mạc Diễn nói: “Tôi
bị điên nói càn thôi.” Cho hắn về. Khi về, quan vị vẫn như cũ, không chịu
cho gặp sứ Hán. Năm sau, Thiền vu dâng thư xin triều kiến vào tháng giêng năm
thứ 4 (25 TCN) ở Hà Tây, rồi vào chầu. Ban thêm gấm, vải thêu và tơ lụa 20.000
tấm, tơ 20.000 cân, còn lại như thời Cảnh Ninh.
Phức Chu Lũy Thiền vu lập được 10 năm,
chết năm Hồng Gia thứ 1 (20 TCN). Em trai là Thả Mi Tư lập làm Sưu Hài Nhược Đê
thiền vu (搜諧若鞮).
Sưu Hài thiền vu lập, khiển con trai
là Tả Chúc Đô Hàn vương Cù Lưu Tư Hầu (左祝都韓王朐留斯侯) vào làm con tin,
lấy Thả Mạc Xa làm Tả hiền vương. Sưu Hài thiền vu lập được 8 năm, đến năm
Nguyên Diên thứ 2 (12 TCN) lên đường chuẩn bị năm sau vào chầu, nhưng chưa đến
cõi thì bệnh chết. Em trai là Thả Mạc Xa lập làm Xa Nha Nhược Đê thiền vu (車牙若鞮).
Xa Nha thiền vu lập, khiển con trai Hữu
Ư Đồ Cừu Đàn vương Ô Di Đương (右於涂仇撣王烏夷當) vào chầu, lấy
Nang Tri Nha Tư làm Tả hiền vương. Xa Nha Thiền vu lập được 4 năm, chết năm Tuy
Hòa thứ 1 (8 TCN). Em trai Nang Tri Nha Tư lập làm Ô Chu Lưu Nhược Đê thiền vu
(烏珠留若鞮單于).
Ô Chu Lưu Thiền vu lập, lấy con trai
thứ hai của Yên thị là Lạc (樂) làm Tả hiền
vương, lấy con trai thứ năm của Yên thị là Dư (輿)
làm Tả hiền vương, khiển con trai là Hữu Cổ Nô vương Ô Đê Nha Tư (右股奴王烏鞮牙斯) vào làm con tin. Hán khiển Trung
lang tướng Hạ Hầu Phiên, Phó hiệu úy Hàn Dung đi sứ Hung Nô. Bấy giờ cậu của
hoàng đế là Đại tư mã Phiêu Kỵ tướng quân Vương Căn lĩnh việc Thượng thư. Có kẻ
nói với Căn rằng:
“Hung Nô có vùng đất giáp quận Trương Dịch của
Hán, mọc thứ gỗ lạ, đem làm thân tên thì nhẹ như lông vũ. Nếu như có được, biên
giới sẽ rất giàu. Nước nhà mở rộng được đất, thì công lao của tướng quân sẽ
truyền đến vô cùng.”
Khi
Căn tâu lên cái lợi ấy, Hoàng thượng muốn trực tiếp đòi Thiền vu, nhưng vì sợ hại
mệnh tổn uy nên cho là không được. Căn liền lấy chỉ của Hoàng thượng báo cho
Phiên, lệnh Phiên thuyết phục để lấy. Phiên đến Hung Nô, dùng lời thuyết phục Thiền
vu rằng:
“Trộm thấy Hung Nô có vùng đất giáp quận
Trương Dịch của Hán. Ba viên Đô úy của Hán sống ở quan ải, sĩ tốt mấy trăm người
khổ vì giá rét để canh giữ lâu nay. Thiền vu nên dâng thư hiến đất ấy, trực tiếp
cắt bỏ, thì sẽ giảm hai đô úy và mấy trăm sĩ tốt. Biết trả ân hậu của Thiên tử,
tất sẽ được đền đáp lớn.”
Thiền
vu nói:
“Đấy
là lời chiếu của Thiên tử ư? Sao sứ giả không mang theo để xin?”
Phiên
nói:
“Là
chiếu chỉ, nhưng Phiên cũng vẽ kế hay cho Thiền vu thôi.”
Thiền
vu nói:
“Hiếu Tuyên, Hiếu Nguyên hoàng đế thương xót
cho cha ta là Hô Hàn Tà thiền vu, cho từ Trường Thành về bắc thuộc về Hung Nô.
Đấy là đất Ôn Ngẫu Dư vương (溫偶駼王) sống, chưa hiểu
hình trạng thế nào, xin khiển sứ hỏi.”
Phiên
và Dung về Hán, rồi lại đi sứ Hung Nô, khi đến liền xin đất. Thiền vu nói:
“Cha anh ta truyền năm đời, Hán không xin đất
ấy; đến khi biết còn mình ta mới xin, là sao vậy? Đã hỏi Ôn Ngẫu Dư vương, chư
hầu ở biên giới phía tây Hung Nô khi dựng lều và đóng xe đều dựa vào gỗ ở núi ấy.
Hơn nữa là đất ông cha, nên không dám để mất.”
Khi
Phiên về, được đổi chức làm Thái Nguyên Thái thú. Thiền vu khiển sứ dâng thư,
đem lời xin đất của Phiên báo lại. Xuống chiếu báo Thiền vu rằng:
“Phiên tự tiện xưng chiếu với Thiền vu để xin
đất, theo phép đáng chết. Rốt cuộc vì đại xá hai lần, nên nay đã đổi Phiên làm
Tề Nam Thái thú, không cho lo việc Hung Nô.”
Năm
sau, người con trai làm tin [của Thiền vu] chết, đưa về táng. [Thiền vu] lại
khiển con trai Tả Ư Từ Cừu Đàn vương Kê Lưu Côn (左於駼仇撣王稽留) vào chầu.
Đến năm Kiến Bình thứ 2 triều Ai đế (5
TCN), con trai thứ của Ô Tôn [vương] là Hấp hầu Ty Viện Đế (卑援疐) đem bộ chúng vào biên giới phía tây
Hung Nô, cướp bóc súc vật, giết chóc người dân. Thiền vu nghe tin, khiển Tả đại
đương hộ Ô Di Lệnh (烏夷泠) đem 5.000 kỵ
đánh Ô Tôn, giết mấy trăm người, bắt hơn nghìn người, lùa súc vật về. Ty Viện Đế
sợ, khiển con trai Xúc Lộc (趨逯) làm con tin ở
Hung Nô. Thiền vu nhận, đem sự trạng báo lại [cho Hán]. Hán khiển Trung lang tướng
Đinh Dã Lâm, Phó hiệu úy Công Thừa Âm đi sứ Hung Nô quở trách Thiền vu, lệnh phải
trả con trai Ty Viện Đế về. Thiền vu nhận chiếu, cho về.
Năm Kiến Bình thứ 4 (3 TCN), Thiền vu
dâng thư xin năm thứ 5 được vào chầu. Bấy giờ Ai đế bị bệnh, có kẻ nói Hung Nô
từ thượng du đến yểm thắng người khác [9], và từ thời Hoàng Long, Cảnh Ninh, mỗi
khi Thiền vu vào chầu Trung Quốc đều có đại tang. Hoàng thượng vì vậy thấy khó,
đem hỏi công khanh, thì họ cũng cho rằng hư phí kho tàng, chớ nên đồng ý. Sứ Thiền
vu trở về, chưa đi, thì Hoàng môn lang Dương Hùng dâng thư can gián rằng:
“Thần nghe nói phép cai trị của Lục Kinh [10] quý ở lúc chưa loạn, cách chiến thắng của binh gia quý ở lúc chưa đánh.
Hai điều ấy đều nhỏ nhưng là gốc của việc lớn, không thể không xem xét vậy. Nay
Thiền vu dâng thư xin vào chầu, nước nhà không đồng ý mà từ chối, thì thần trộm
thấy rằng Hán với Hung Nô sẽ từ đấy nảy sinh hiềm khích. Người Địch vốn ở đất bắc,
Ngũ Đế không thể thần phục, Tam Vương [11] không thể chế ngự, rõ
ràng không thể để sinh hiềm khích được. Thần không dám nói việc xa xôi, xin dẫn
chuyện thời Tần đến nay để rõ:
Tần Thủy Hoàng hùng cường, Mông Điềm uy phong,
quân mang giáp hơn bốn mươi vạn, nhưng không dám dòm ngó Tây Hà, bèn xây Trường
Thành làm ranh giới. Lúc Hán mới hưng, Cao Tổ có uy linh, mà ba mươi vạn quân gặp
khốn ở Bình Thành, lính có kẻ bảy ngày không ăn. Bấy giờ mưu sĩ kỳ tài, bề tôi
vẽ kế rất nhiều, nhờ thế rốt cuộc thoát được, nhưng cả đời chẳng nói đến nữa. Cao
hoàng hậu lại từng oán phẫn Hung Nô, khi quần thần bàn bạc thì Phàn Khoái xin
đem mười vạn quân hoành hành giữa Hung Nô. Quý Bố nói: ‘Khoái đáng chém, a dua
theo chỉ!” Vì thế các đại thần cân nhắc gửi thư. Nhưng về sau Hung Nô kết ước, nên
Trung Quốc yên bình. Đến thời Hiếu Văn, Hung Nô xâm bạo biên giới phía bắc, kỵ
trinh sát đến sát Cam Tuyền. Kinh sư khiếp hãi, phát ba tướng quân đóng ở Tế Liễu,
Cức Môn, Phách Thượng để phòng bị, mấy tháng mới bãi. Khi Hiếu Vũ lên ngôi, bày
kế ở Mã Ấp hòng dụ Hung Nô, sai Hàn An Quốc đem ba mươi vạn quân đóng ở nơi thuận
tiện. Hung Nô phát giác mà bỏ đi, nên phí của nhọc quân mà không thấy được một
tên giặc nào, huống hồ là thấy mặt Thiền vu! Về sau suy tính kĩ kế cho xã tắc,
vạch ra mưu lớn cho muôn đời, bèn dấy mấy chục vạn quân, sai Vệ Thanh, Hoắc Khứ
Bệnh cầm binh, trước sau hơn mười năm. Vì thế vượt Tây Hà, xuyên Đại Mạc, phá
Trí Nhan [12], đánh vương đình,
đi đến cùng đất ấy, đánh đuổi chúng về bắc, tế trời ở núi Lang Cư Tư, tế đất ở
Cô Diên, tới biển Lâm Hàn, bắt danh vương, quý nhân đến hàng trăm. Từ đấy về
sau Hung Nô khiếp sợ, càng xin hòa thân, nhưng mà chưa chịu xưng thần.
Đời trước nào có
ham bỏ ra phí vô vạ, bóc lột người vô tội, quyết tâm vì chốn lang sói ở cõi bắc
ấy đâu? Chỉ vì không lao khổ một lần thì không thể an nhàn về lâu, không tạm thời
hao phí thì không thể yên ổn mãi mãi. Thế nên đành đem trăm vạn quân để khóa miệng
hổ đói, chở của kho tàng để lấp vực Lư Sơn [13], mà không
hối tiếc. Đến đầu thời Bản Thủy, Hung Nô có dã tâm, cướp bóc Ô Tôn, chèn ép
công chúa, nên phát quân của năm tướng gồm mười vạn kỵ đi tuần phía nam nước ấy,
rồi Trường La hầu đem năm vạn kỵ Ô Tôn đánh vào mặt tây, đều bắt được con tin rồi
về. Bấy giờ bắt được không ít, nên dương cao uy vũ, tỏ rõ rằng Hán binh mạnh
như sấm gió. Nhưng vì đi tay trắng về tay trắng, nên xử hai tướng quân. Thế nên
Bắc Địch không phục, Trung Quốc chưa được kê cao gối ngủ ngon.
Đến thời Nguyên
Khang, Thần Tước, đức hóa anh minh, hồng ân ban khắp, mà Hung Nô nội loạn, năm
Thiền vu tranh lập. Nhật Trục, Hô Hàn Tà bỏ nước đến nhận tội, phủ phục xưng thần,
nên vẫn trói buộc được chúng, không phải chuyên chế. Từ đấy về sau ai muốn đến
chầu thì không cản, ai không muốn thì không ép. Vì sao vậy? Ngoại quốc tính trời
hung dữ, tướng mạo khôi kiện, nương cậy sức lực, nên khó giáo hóa theo điều thiện,
dễ bắt chước theo cái ác. Kẻ cường bạo thì khó truất bỏ, kẻ hòa hiếu thì khó
tìm được. Thế nên lúc chúng chưa phục phải nhọc quân đi đánh xa xôi, dốc sạch của
cải trong nước, phơi thây đổ máu để phá tan địch mạnh, như vậy là khó; lúc
chúng đã phục, thì úy lạo vỗ về, giao tiếp biếu tặng, uy nghi trọn vẹn, như thế
là dễ. Thời trước từng giết sạch thành Đại Uyển, phá tan lũy Ô Hoàn, dò la cõi
Cô Tăng [14],
giày xéo chốn Đãng Tả [15], đánh đổ nước Triều Tiên, nhổ ngọn cờ Lưỡng
Việt. Gần thì phục dịch không hơn một tháng, xa thì lao khổ chẳng quá hai mùa.
Vốn đã phá hủy cung đình, quét sạch nhà cửa những nước ấy, đặt làm quận huyện,
như khói bay mây tản, chẳng còn mầm mống nào. Chỉ có Bắc Địch là không như vậy,
thực là kẻ địch mạnh của Trung Quốc. Ba cõi [16] vẫn còn dở dang, đời
trước vẫn còn lo lắng, chưa thể coi dễ.
Nay Thiền vu quy
nghĩa, có lòng nạp khoản tỏ thành, muốn rời đình của mình mà đến yết kiến trước
mặt [Thiên tử]. Đấy là kế sách mà đời xưa ban tặng, là hi vọng mà thần linh tưởng
thưởng, nước nhà dẫu có hao phí cũng là bất đắc dĩ. Cớ gì cho rằng là đến yểm thắng
nên phải cản, không có ngày nên phải ngăn, khiến ân đức xưa kia tiêu tan, hiềm
khích tương lai nảy nở? Đã nạp khoản mà lại chọc giận, sẽ khiến chúng mang hận
trong lòng, phụ lại lời trước, dấn vào lối cũ, nuôi oán với Hán rồi tự tuyệt
giao, rốt cuộc không có ý quay mặt về bắc nữa []. Như vậy muốn ra uy cũng không
được, muốn chiêu dụ cũng không thể, chẳng phải sẽ thành mối lo lớn sao? Người
sáng suốt thấy được cái vô hình, người thông minh biết nghe lời vô thanh. Nếu
thực biết lo chuyện chưa xảy đến, thì Mông Điềm, Phàn Khoái cũng không cần tới,
Cức Môn, Tế Liễu cũng không cần lo; kế sách ở Mã Ấp nào phải đặt, công trạng của
Vệ, Hoắc nào phải dùng, binh uy của năm tướng nào phải dấy nữa? Bằng không, một
khi đã có hiềm khích, thì dù là kẻ trí giả cũng phải lao tâm ở trong, kẻ biện
sĩ cũng phải chen chúc ở ngoài, chẳng còn như lúc chuyện chưa xảy đến. Hơn nữa
thời trước mưu tính việc Tây Vực, chế ngự Xa Sư, đặt ra thành quách, đô hộ ba
mươi sáu nước, phí tổn hằng năm đến hàng vạn, há có phải vì lo Khang Cư, Ô Tôn
vượt đồi Bạch Long [17] để cướp biên giới phía tây đâu? Đấy là để chế ngự
Hung Nô vậy. Lao khổ trăm năm mà để mất trong một ngày, bỏ ra mười mà thu một,
thần trộm nghĩ là điều bất an cho nước. Mong Bệ hạ dành chút lưu ý đến lúc chưa
loạn chưa chiến, để ngăn mầm họa nơi biên giới.”
Xem
qua tấu, Thiên tử hiểu ra, triệu sứ giả Hung Nô trở lại, rồi trả lời cho Hung
Nô biết mình đã đồng ý. Ban 50 tấm lụa, 10 cân vàng. Thiền vu chưa đi thì đổ bệnh,
nên lại khiển sứ xin đến chầu vào năm sau. Lệ cũ, khi Thiền vu đến chầu, từ
danh vương trở xuống và tùy tùng đi theo đều hơn 200 người. Thiền vu lại dâng
thư nói rằng: “Được đội ơn từ thần linh của Thiên tử nên nhân dân phồn thịnh.
Xin cho 500 người vào chầu, để tỏ rõ thịnh đức của Thiên tử.” Hoàng thượng
đều đồng ý cả.
Năm Nguyên Thọ thứ 2 (1 TCN), Thiền vu
đến triều. Hoàng thượng thấy sao Thái Tuế yểm thắng nơi sở tại, nên nghỉ tại
cung Bồ Đào trong vườn Thượng Lâm. Báo cho Thiền vu để tỏ thêm lòng kính trọng,
nên Thiền vu cũng hiểu. Ban thêm y phục 370 bộ, gấm thêu, lụa là 30.000 tấm, tơ
30.000 cân, còn những thứ khác như thời Hà Bình. Khi xong, khiển Trung lang tướng
Hàn Huống đưa Thiền vu về. Thiền vu rời cõi, đến giếng Hưu Đồn, qua sông Xa Điền
Lư (車田盧) đi về phía bắc, đường sá rất quanh
co xa xôi. Bọn Huống thiếu ăn, Thiền vu bèn cấp lương cho, về trễ hơn 50 ngày.
Ban đầu, Hoàng thượng cho Kê Lưu Chúc
về cùng Thiền vu; khi đến nước, lại khiển anh trai cùng mẹ của Kê Lưu Chúc là Hữu
Đại Thả Phương (右大且方) cùng vợ vào chầu.
Khi cho về, [Thiền vu] lại khiển anh trai của Thả Phương là Tả Nhật Trục vương
Đô (都) cùng vợ vào chầu. Bấy giờ Hán Bình đế
còn nhỏ, Thái hoàng thái hậu xưng chế, Tân Đô hầu Vương Mãng nắm chính sự, muốn
bảo Thái hậu dùng uy đức để tạo hưng thịnh hơn trước, bèn phao tin để Thiền vu
khiển con gái Vương Chiêu Quân là Tu Bốc cư thứ Vân vào chầu. Thái hậu vì thế
ban thưởng rất hậu.
Bấy giờ Xa Sư Hậu vương Câu Cổ (句姑), Khứ Hồ Lai vương Đường Đâu (唐兜) ở Tây Vực đều oán hận Đô hộ Hiệu úy,
đem vợ con, nhân dân sang hàng Hung Nô (chép ở Tây Vực truyện). Thiền vu
nhận, bố trí ở đất của Tả cốc lê, khiển sứ dâng thư nói sự trạng rằng:
“Thần
xin nhận trước.”
Xuống
chiếu cho Trung lang tướng Hàn Long, Vương Xương, Phó hiệu úy Chân Phụ, Thị
trung Yết giả Bạch Xưởng, Trường Thủy Hiệu úy Vương Hấp đi sứ Hung Nô, báo Thiền
vu rằng:
“Tây
Vực nội thuộc, không thể nhận được, nay phải trả về.”
Thiền
vu nói:
“Hiếu Tuyên, Hiếu Nguyên hoàng đế thương xót,
làm ra giao ước, từ Trường Thành về nam thuộc về Thiên tử, Trường Thành về bắc
thuộc về Hung Nô. Có ai phạm cõi liền báo sự trạng, có kẻ đầu hàng thì không được
nhận. Thần biết cha mình Hô Hàn Tà thiền vu đội ơn không kể xiết, lúc chết để lại
lời rằng: ‘Có người theo Trung Quốc đến hàng thì chớ nhận, đưa ngay đến ải để
báo đáp ơn sâu của Thiên tử.’ Nhưng đấy là ngoại quốc, thì nhận được.”
Sứ
giả nói:
“Hung Nô cốt nhục đánh nhau, nước sắp mất, nhờ
đội ơn lớn của Trung Quốc nên thoát khỏi nguy vong, vợ con yên ổn, nhiều đời tiếp
nối. Nên lấy việc này để báo ơn hậu ấy.”
Thiền
vu dập đầu tạ tội, bắt hai tên giặc giao cho sứ giả. Xuống chiếu sai Trung lang
tướng Vương Manh đợi ở Ác Đô Nô (惡都奴) trên biên giới Tây Vực để nhận. Thiền vu khiển
sứ đưa về nước, nhân đó xin tạ tội. Sứ giả báo lại, nên có chiếu khỏi phải tạ.
Thế rồi quốc vương các nước Tây Vực chém bọn ấy để làm gương. Bèn đặt ra bốn điều:
người Trung Quốc trốn sang Hung Nô, người Ô Tôn trốn sang hàng Hung Nô, người
các nước Tây Vực đeo ấn thao của Trung Quốc hàng Hung Nô, người Ô Hoàn hàng
Hung Nô, đều không được nhận. Khiển Trung lang tướng Vương Tuấn, Vương Xương,
Phó hiệu úy Chân Phụ, Vương Tầm đi sứ Hung Nô, ban bốn điều ấy cho Thiền vu, bỏ
hộp kín giao Thiền vu, lệnh phụng hành; nhân đó lấy hộp chứa lời giao ước thời
Tuyên đế đem về.
Bấy giờ Mãng tâu rằng người Trung Quốc
không thể có hai tên, vì thế sai sứ giả phao tin cho Thiền vu rằng nếu dâng thư
mộ hóa, hợp thành một tên, Hán ắt thưởng thêm hậu. Thiền vu nghe theo, dâng thư
nói: “May mắn được làm phiên thần, hưởng
trộm niềm vui thái bình thánh chế. Thần tên cũ là Nang Tri Nha Tư, nay cẩn kính
đổi tên thành Tri.” Mãng rất hài lòng, bạch với Thái hậu. Khiển sứ giả đem
dụ trả lời, ban thưởng hậu.
Hán đã ban bốn điều, về sau bảo sứ giả
Ô Hoàn nói với dân Ô Hoàn chớ được nộp thuế da và vải cho Hung Nô nữa. Hung Nô
nhân việc cũ khiển sứ giả thu thuế Ô Hoàn, người dân và đàn bà Hung Nô muốn mua
bán đều đi theo. Ô Hoàn cự lại, nói rằng: “Vâng
điều chiếu của Thiên tử, không nộp thuế cho Hung Nô.” Sứ Hung Nô oán, bắt
tù trưởng của Ô Hoàn, trói lại treo lên. Em trai tù trưởng tức giận, cùng giết
sứ Hung Nô và quan thuộc, cướp lấy đàn bà và bò ngựa. Thiền vu nghe tin, khiển sứ
phát binh của Tả hiền vương vào Ô Hoàn trách tội giết sứ giả, nhân đó công
kích. Ô Hoàn phân tán, có kẻ chạy lên núi, có kẻ về đông giữ cõi. Hung Nô giết
chóc người dân, lùa cả nghìn đàn bà và trẻ nhỏ về, bố trí ở đất tả phương, báo
cho Ô Hoàn rằng: “Mang ngựa, súc vật, da
và vải đến chuộc.” Ô Hoàn thấy số mới bị bắt gồm hơn 2.000 người, nên mang của
cải và súc vật sang chuộc. Hung Nô nhận, nhưng giữ lại không cho về.
Khi Vương Mãng soán ngôi, vào năm Kiến
Quốc thứ 1 (9) khiển Ngũ Uy tướng Vương Tuấn đem bọn Chân Phụ, Vương Táp, Trần
Nhiêu, Bạch Xưởng, Đinh Nghiệp 6 người, mang nhiều vàng lụa tặng Thiền vu, dụ
cho biết chuyện [Mãng] thụ mệnh thay Hán, nhân đó đổi ấn cũ của Thiền vu. Ấn cũ
viết chữ “Hung Nô đại thiền vu tỷ”,
Mãng đổi thành “Tân Hung Nô thiền vu chương”.
Các tướng đến nơi, trao Thiền vu ấn thao, rồi lệnh dâng ấn thao cũ lên. Thiền
vu bái hai lạy, nhận chiếu. Trước khi dịch chiếu, [sứ giả] muốn lấy ấn thao cũ,
nên Thiền vu lấy đưa cho. Tả Cô Tịch hầu Tô (左姑夕侯蘇) ở bên cạnh, nói với Thiền vu rằng:
“Chưa
thấy chữ trên ấn mới, chớ nên đưa.”
Thiền
vu ngưng lại, không chịu đưa, mời sứ giả vào ngồi trong lều vòm vì Thiền vu muốn
chúc thọ trước. Ngũ Uy tướng nói:
“Ấn
thao cũ phải dâng lên ngay.”
Thiền
vu nói:
“Vâng.”
Rồi
lấy đưa cho người phiên dịch. Tô lại nói:
“Chưa
thấy chữ trên ấn, chớ được đưa.”
Thiền
vu nói:
“Chữ
trên ấn sao đổi khác được!”
Rồi
bỏ ấn thao cũ dâng lên, các tướng nhận lấy. [Thiền vu] đeo dây thao mới, không
mở xem ấn, ăn uống đến tối mới nghỉ. Hữu suất Trần Nhiêu nói với các tướng rằng:
“Lúc nãy Cô Tịch hầu nghi ngờ chữ trên ấn, nên lệnh Thiền
vu không đưa cho người. Nếu như để hắn xem ấn, thấy chữ thay đổi, ắt đòi ấn cũ,
việc đấy không thể dùng lời lẽ để cự được. Đã lấy được ấn mà lại để mất là làm
nhục mệnh vua không nhỏ. Chi bằng đập bỏ ấn cũ để dứt mầm họa.”
Các
tướng chần chừ, chẳng có ai hưởng ứng. Nhiêu là quan người Yên, hung hãn, liền
lấy búa phá đi. Hôm sau, Thiền vu quả khiển Hữu cốt đô hầu Đương (當) bạch với các tướng rằng:
“Ấn Hán ban cho Thiền vu gọi là “tỷ”, không phải “chương”, lại không có chữ “Hán”, còn các vương trở xuống thì có chữ “Hán”, gọi là “chương”. Nay ấn bỏ chữ “tỷ”, thêm
chữ “Tân”, không khác gì bề tôi bên
dưới. Mong nhận lại ấn cũ.”
Các
tướng đem ấn cũ cho xem, nói rằng:
“Nhà Tân thuận trời chế tác, ấn cũ tùy ý các
tướng tự phá hoại. Thiền vu nên phụng thiên mệnh, vâng thể chế nhà Tân.”
[Đương]
quay về bạch. Thiền vu biết đã không thể làm gì được, lại có được nhiều quà tặng,
liền khiển em trai là Tả hiền vương Dư mang bò ngựa theo các tướng vào tạ tội,
nhân đó dâng thư xin ấn cũ.
Các tướng về đến đất của Tả Lê Hãn
vương Hàm (左犁汗王咸), thấy dân Ô
Hoàn đông nên hỏi Hàm. Hàm kể hết sự trạng, thì các tướng nói: “Trước giao bốn điều, có điều không được nhận
người Ô Hoàn đầu hàng. Phải trả về gấp.” Hàm nói: “Xin mật báo cho Thiền vu, khi nhận được lời sẽ trả.” Thiền vu sai
Hàm báo rằng: “Phải trả về ở trong biên
giới, hay trả về ở ngoài biên giới đây?” Các tướng không dám tự quyết nên
báo lên. Xuống chiếu báo phải trả lại ở ngoài biên giới.
Thiền vu ban đầu vì Hạ Hầu Phiên xin đất
mà có lời cự Hán. Về sau thấy đòi thuế Ô Hoàn không được nên cướp bóc người dân
nước ấy, do vậy sinh hấn; lại thêm việc thay đổi chữ trên ấn nên càng oán hận. [Thiền
vu] bèn khiển bọn Hữu đại thả cừ Bạc Hô Lư Ty (蒲呼盧訾) hơn 10 người đem 10.000 kỵ, lấy cớ hộ tống
người Ô Hoàn để bày binh dưới cửa ải Sóc Phương. Sóc Phương Thái thú báo lại.
Năm sau, Xa Sư Hậu vương Tu Trí Lệ (須置離) ở Tây Vực mưu hàng Hung Nô; Đô hộ
Đán Khâm trị tội, chém đi. Anh trai Trí Lệ là Hồ Lan Chi (狐蘭支) dẫn hơn 2.000 dân chúng, lùa súc vật,
đem cả nước sang hàng Hung Nô. Thiền vu nhận. Hồ Lan Chi cùng Hung Nô vào cướp,
đánh Xa Sư, giết Hậu Thành Trường, đả thương Đô hộ Tư mã, rồi trở về Hung Nô.
Bấy giờ bọn Mậu Kỷ Hiệu úy Sử Trần
Lương, Chung Đái, Tư mã thừa Hàn Huyền, Hữu Khúc hầu Nhậm Thương thấy Tây Vực
hay bội phản, nghe tin Hung Nô muốn xâm lấn lớn, sợ chết cả lũ nên liền mưu cướp
bắt mấy trăm lại tốt, cùng giết Mậu Kỷ Hiệu úy Đao Hộ, rồi khiển người báo lại
cho Nam Lê Hãn vương Nam tướng quân của Hung Nô. Nam tướng quân của Hung Nô đem
2.000 kỵ vào Tây Vực đón bọn Lương. Bọn Lương cướp bắt lại tốt, nam nữ của Mậu
Kỷ Hiệu úy được hơn 2.000 người, đem vào Hung Nô. Huyền, Thương ở lại chỗ của
Nam tướng quân, Lương, Đái đi đến đình của Thiền vu, dân chúng bị bố trí riêng ở
Điền Cư (田居) trên sông Linh
Ngô (零吾). Thiền vu đặt hiệu cho Lương và Đái
là Ô Hoàn Đô tướng quân, giữ lại chỗ của mình, nhiều lần gọi đến ăn uống cùng.
Tây Vực Đô hộ Đán Khâm dâng thư nói
Nam tướng quân Hữu Y Trật Ty của Hung Nô đem dân mình đánh cướp các nước. Mãng
vì thế chia tách Hung Nô làm 15 Thiền vu, khiển Trung lang tướng Lận Bao, Phó
hiệu úy Đái Cấp đem 10.000 kỵ, mang nhiều thứ quý giá đến ải Vân Trung, chiêu dụ
các con của Hô Hàn Tà thiền vu, hòng ban cho. Sứ giả rời cõi dụ Hữu Lê Hãn
vương Hàm và con trai Hàm là Đăng, Trợ 3 người. Khi đến nơi, liền ép phong Hàm
làm Lý thiền vu, ban xe có ghế, xe chở trống mỗi thứ 1 chiếc, vàng 1.000 cân, lụa
là 1.000 tấm, kích 10 ngọn. Phong Trợ làm Thuận thiền vu, ban vàng 500 cân; đưa
Trợ và Đăng về Trường An. Mãng phong Bao làm Tuyên Uy công, cho làm Hổ Nha tướng
quân; phong Cấp làm Dương Uy công, cho làm Hổ Bôn tướng quân. Thiền vu nghe tin
thì nổi giận, nói rằng: “Trước kia Thiền
vu nhận ơn Hán Tuyên đế, không thể đáp đủ. Nay Thiên tử không phải cháu Tuyên đế,
sao lại được lập?” Rồi khiển Tả cốt đô hầu, Hữu Y Trật Lê vương Hô Lư Ty và
Tả hiền vương Lạc (樂) đem binh vào ải
Ích Thọ ở Vân Trung, giết chóc lại dân. Năm ấy là năm Kiến Quốc thứ 3 (11).
Về sau Thiền vu báo khắp cho Đô úy các
bộ tả hữu và các vương ở biên giới, vào cõi cướp bóc, đoàn lớn hơn vạn, đoàn vừa
mấy nghìn, nhỏ mấy trăm. Giết Thái thú, Đô úy ở Nhạn Môn, Sóc Phương, cướp lại
dân, súc vật không thể đếm xuể, dọc biên giới mất mát nhiều. Mãng mới lên ngôi,
cậy kho tàng giàu có nên muốn lập uy, bèn cho tướng soái 12 bộ [18] phát dũng
sĩ các quận quốc và tinh binh ở Vũ khố, đều chia nơi đồn thú, chuyển hết đến
biên giới. Tổng cộng 300.000 quân, mang 300 ngày lương, cùng lúc theo mười đường
tiến ra truy đuổi Hung Nô, đến tận đất Đinh Linh. Nhân đó chia đất ấy, lập 15
người con của Hô Hàn Tà.
Tướng của Mãng là Nghiêm Vưu can gián
rằng:
“Thần nghe nói Hung Nô là mối hại, nhưng chúng
đi theo đã lâu. Chưa nghe nói đời thượng cổ có ai đánh dẹp được. Đời sau ba nhà
Chu, Tần, Hán đánh dẹp nhưng đều chưa có được thượng sách, Chu có trung sách,
Hán có hạ sách, Tần không có kế sách nào.
Ở thời Chu Tuyên vương, Hiểm Duẫn nội xâm đến
tận Kinh Dương, mệnh tướng đánh dẹp đến tận cõi rồi về. Nhà Chu thấy Nhung Địch
xâm lăng ví như ruồi muỗi chích, chỉ cần xua đi mà thôi, thế nên thiên hạ gọi
là “minh”. Đấy là trung sách.
Hán Vũ đế tuyển tướng luyện binh, hẹn mang
lương nhẹ, thâm nhập cõi xa, tuy có công bắt giết, nhưng người Hồ liền báo thù. Việc
binh kéo dài hơn ba mươi năm, Trung Quốc hao tổn, Hung Nô cũng chịu thương
tích, mà thiên hạ gọi là “vũ”. Đấy là hạ sách.
Tần Thủy Hoàng không chịu được cái sỉ nhỏ mà
khinh rẻ sức dân, xây Trường Thành cố thủ, kéo dài vạn lí, tiến hành chuyên chở,
bắt đầu ở ven biển. Bờ cõi đã toàn vẹn, nhưng Trung Quốc kiệt quệ bên trong, nên
đánh mất xã tắc. Đấy là vô sách.
Nay thiên hạ chịu ách dương cửu [19], năm gần đây thiếu
đói, biên giới tây bắc càng bị nặng. Phát 30 vạn quân, đủ lương 300 ngày, phía
đông ứng viện Hải Đại, phía nam thu lấy Giang Hoài, rồi sau mới phòng bị. Xem
xét đường sá thì cả năm vẫn chưa tập hợp, binh đến trước gặp phải mưa gió, quân
lính mệt, khí giới cùn, thế ấy không thể dùng được. Đấy là cái khó thứ nhất vậy.
Biên giới đã trống rỗng, không lo được quân
lương, phải điều từ quận quốc thì không liên tục được. Đấy là cái khó thứ hai vậy.
Tính rằng một người ăn trong 300 ngày phải dùng
18 hộc lương, không có sức trâu bò thì không vác nổi. Trâu bò lại cần mang thức
ăn riêng thêm 20 hộc, rất nặng. Đất Hồ là cát mặn, hay thiếu cỏ nước, xét việc
cũ là thấy ngay. Xuất quân chưa đầy trăm ngày ắt trâu bò đã chết hết, lương thực
còn lại nhiều, người không vác nổi. Đấy là cái khó thứ ba vậy.
Đất Hồ mùa thu đông rất rét, xuân hè lắm gió,
mang nhiều nồi chảo, củi than thì nặng không vác nổi. Nếu chỉ ăn cơm khô và uống
nước để qua bốn mùa, thì trong quân có mối lo về bệnh dịch. Nên đời trước phạt Hồ
không quá trăm ngày thì chẳng ham nữa, là vì sức không đủ gánh vác. Đấy là cái
khó thứ tư vậy.
Xe hàng tự đi theo thì lính tinh nhuệ ít,
không đi nhanh được. Giặc thong thả trốn tránh, không thể theo kịp, còn may mắn
gặp giặc thì lại vướng xe hàng. Nếu như qua nơi hiểm trở mà đầu đuôi kéo dài,
giặc cản đường trước sau thì nguy khốn không lường hết. Đấy là cái khó thứ năm
vậy.
Dùng nhiều sức dân thì không thể không lập
công, thần rất lấy làm lo lắng. Nay đã phát binh, nên tung ra số đến trước, lệnh
bọn thần Vưu đánh nhanh như chớp để sát thương giặc Hồ.”
Mãng
không nghe lời Vưu, vẫn chuyển binh lương như trước, thiên hạ tao động.
Hàm sau khi nhận hiệu Lý thiền vu của
Mãng thì chạy khỏi biên giới quay về đình, đem hết sự trạng bị ép buộc bạch với
Thiền vu. Thiền vu đổi cho làm Ư Túc Trí Chi hầu (於粟置支侯), là chức quan hèn mọn của Hung Nô. Về
sau Trợ bệnh chết, Mãng lấy Đăng thay Trợ làm Thuận Thiền vu.
Yểm Nan tướng quân Trần Khâm, Chấn Địch
tướng quân Vương Tuần đóng ở ải Cát Tà [] tại Vân Trung. Bấy giờ Hung Nô nhiều
lần cướp bóc biên giới, giết tướng soái lại sĩ, cướp người dân, lùa súc vật về
rất nhiều. Bắt sống được giặc để xét hỏi, đều nói con trai Lý thiền vu Hàm là
Giác (角) nhiều lần vào cướp. Hai tướng báo lại.
Năm thứ 4 (12), Mãng họp các [sứ giả] Man Di, chém con trai Hàm là Đăng ở chợ
Trường An.
Ban đầu, biên giới phía bắc từ thời Tuyên
đế đến nay nhiều đời không thấy lửa hiệu, người dân đông đúc, bò ngựa đầy đồng.
Khi Mãng dấy loạn với Hung Nô, cùng chúng gây nạn, nên dân biên giới bị tử
vong, bắt bớ. Binh 12 bộ lại đóng lâu không xuất, lại sĩ đổ đốn. Trong vòng mấy
năm biên giới phía bắc trống không, xương phơi đầy đồng.
Ô Chu Lưu thiền vu lập được 21 năm, chết
năm Kiến Quốc thứ 5 (13). Đại thần nắm quyền ở Hung Nô là Hữu cốt đô hầu Tu Bốc
Đương (須卜當), tức con rể của Y Mặc cư thứ Vân,
con gái Vương Chiêu Quân. Vân thường muốn hòa thân với Trung Quốc, lại vốn thân
quen với Hàm, thấy Hàm trước sau bị Mãng ép nhận phong, nên bèn bỏ qua Dư mà lập
Hàm làm Ô Lõa Nhược Đê thiền vu (烏累若鞮).
Ô Lõa Nhược Đê thiền vu lập, lấy em
trai Dư làm Tả cốc lê vương, con trai Ô Chu Lưu Thiền vu là Tô Đồ Hồ Bản (蘇屠胡本) làm Tả hiền vương, lấy em trai tức
con Đồ Kỳ Yên thị là Lư Hỗn (盧渾) làm Tả hiền
vương. Vào thời Ô Chu Lưu thiền vu nhiều Tả hiền vương chết, nên cho rằng cái
hiệu ấy không may, đổi sang gọi Tả hiền vương là “Hộ Ư” (護於) . Hộ Ư là tôn quý nhất, theo thứ bậc
sẽ được làm Thiền vu, nên Ô Chu Lưu thiền vu cho con trai lớn làm Hộ Ư, muốn truyền
nước cho. Hàm oán Ô Chu Lưu thiền vu giáng hiệu mình xuống thấp, không muốn
truyền nước [cho Hộ Ư]. Khi lập, biếm Hộ Ư làm Tả đồ kỳ vương. Vân và Đương bèn
khuyên Hàm hòa thân.
Năm Thiên Phụng thứ 1 (14), Vân và
Đương khiển người đến cửa ải Hổ Mãnh Chế Lỗ [] ở Tây Hà, báo với quan lại ở ải
rằng muốn gặp Hòa Thân hầu. Hòa Thân hầu Vương Hấp là con trai của anh Vương
Chiêu Quân. Trung bộ Đô úy báo lại. Mãng khiển Hấp và em trai Kỵ đô úy Triển Đức
hầu Táp đi sứ Hung Nô, chúc mừng Thiền vu mới lập, ban vàng, y phục và tơ lụa,
nói dối là con trai hắn Đăng còn sống, nhân đó đòi bọn Trần Lương, Chung Đái. Thiền
vu đem hết bốn người ấy và tên giặc đã giết Hiệu úy Đao Hộ là Chi Âm cùng vợ
con trở xuống 27 người, đều nhốt vào cũi rồi giao sứ giả, khiển bọn Trù Duy Cô
Tịch vương Phú (廚唯姑夕王富) 40 người giải đến
chỗ Hấp và Táp. Mãng đặt ra hình phạt thiêu sống, thiêu chết bọn Trần Lương, rồi
bãi binh đóng giữ của các tướng, nhưng vẫn đặt chức Du kích Đô úy. Thiền vu
tham quà tặng của Mãng, nên ngoài mặt không làm trái lệ cũ của Hán, nhưng bên
trong hám lợi cướp bóc. Khi sứ về, [Thiền vu] biết con trai mình là Đăng đã chết
nên oán hận, từ đất tả phương vào cướp bóc không dứt. Sứ giả hỏi Thiền vu, liền
nói: “Bọn dân gian xảo của Ô Hoàn và Hung
Nô cùng vào cõi cướp bóc, ví như ở Trung Quốc có đạo tặc thôi! Hàm mới lên nắm
nước, uy tín vẫn thấp, nhưng dốc sức cấm cản, không dám mang hai lòng.”
Tháng 5 năm Thiên Phụng thứ 2 (15),
Mãng lại khiển Hấp và Ngũ uy tướng Vương Hàm đem bọn Phục Ảm, Đinh Nghiệp 6 người,
sai đưa tiễn Hữu Trù Duy Cô Tịch vương, nhân đó đưa người con làm tin đã bị
chém là Đăng và các quý nhân đi theo về táng, đều chở bằng xe nghi trượng. Khi
đến biên giới, Thiền vu khiển Vân và con trai Đương là bọn Đại thả cừ Xa đến ải
đón. Bọn Hàm đến, tặng Thiền vu nhiều của cải, nhân đó dụ bảo đổi hiệu, gọi
Hung Nô là “Cung Nô” (恭奴), Thiền vu là
“Thiện vu” (善于) [20], ban ấn
thao. Phong Cốt đô hầu Đương làm Hậu An công, con trai Đương là Nam Xa (男奢) làm Hậu An hầu. Thiền vu tham vàng lụa
của Mãng nên miễn cưỡng nghe theo, nhưng vẫn cướp bóc như trước. Hàm, Ấp lại lấy
vàng của bọn Trần Lương đưa cho Vân và Đương, lệnh tự chia nhau. Tháng 12, trở
về cõi. Mãng mừng rỡ, ban Hấp 200 vạn tiền, bọn Ảm đều được phong.
Thiền vu Hàm lập được 5 năm, chết năm
Thiên Phụng thứ 5 (18). Em trai là Tả hiền vương Dư lập làm Hô Đô Nhi Đạo Cao
Nhược Đê thiền vu (呼都而屍道皋若鞮). Hung Nô gọi hiếu
là “nhược đê”; từ Hô Hàn Tà về sau thân mật với Hán, thấy Hán đặt thụy hoàng đế
là “hiếu” thì bắt chước, nên đều gọi là “nhược đê.”
Hô Đô Nhi Đạo Cao Nhược Đê thiền vu Dư
lập, tham mối lợi từ ban thưởng nên khiển Đại thả cừ Xa và Hề Độc vương (醯櫝王) - con trai của em gái Vân là Đương Ư
cư thứ, cùng đến Trường An phụng hiến. Mãng khiển Hòa Thân hầu Hấp cùng bọn Xa
đến ải Chế Lỗ gặp Vân và Đương, nhân đó đem binh uy hiếp, đưa đến Trường An. Vân
và con trai nhỏ của Đương từ biên giới thoát được về Hung Nô. Khi Đương đến Trường
An, Mãng phong làm Tu Bốc thiền vu, muốn xuất đại binh để đưa lên ngôi. Binh được
điều chưa hợp thì Hung Nô đã nổi giận, tiến vào biên giới phía bắc. Biên giới
phía bắc do vậy đều tiêu điều. Gặp lúc Đương bệnh chết, Mãng lấy con gái thứ của
hắn là Lục Lộc Nhậm (陸逯任) gả cho An công
Xa, tôn sủng rất hậu, cuối cùng muốn xuất binh lập lên ngôi. Gặp lúc Hán binh
tru Mãng, Vân và Xa cũng chết.
Mùa đông năm Canh Thủy thứ 2 (24), Hán
khiển Trung lang tướng Quy Đức hầu Táp, Đại tư mã Hộ quân Trần Tuân đi sứ Hung
Nô, trao Thiền vu tỷ thao theo chế độ cũ của Hán, vương hầu trở xuống nhận ấn
thao. Nhân đó đưa thân thuộc, quý nhân đi theo Vân và Đương còn sót trở về. Thiền
vu thêm kiêu ngạo, nói với Tuân và Táp rằng: “Hung Nô vốn là anh em với Hán. Khi Hung Nô loạn, Hiếu Tuyên hoàng đế
giúp lập Hô Hàn Tà thiền vu, nên xưng thần để tôn Hán. Nay Hán cũng đại loạn, bị
Vương Mãng soán ngôi, Hung Nô cũng xuất binh đánh Mãn, quét sạch biên cảnh, khiến
thiên hạ tao động mà nhớ Hán. Mãng rốt cuộc bại mà Hán lại hưng, cũng là nhờ sức
ta vậy. Phải tôn ta lại.” Tuân cự lại với chúng, nhưng Thiền vu rốt cuộc giữ
lời ấy. Mùa hè năm sau, [Tuân] trở về. Gặp lúc quân Xích My [21] vào Trường An,
Canh Thủy đế bại vong.
***
Chú
thích:
1.
Ngũ Nguyên: Tên quận thời Hán, nay nằm trên vùng đông Ordos và nam Bao Đầu, Nội
Mông, Trung Quốc.
2.
Cam Tuyền: Nay thuộc Hàm Dương, Thiểm Tây.
3.
Trường Bình: Nay thuộc Cao Bình, Sơn Tây.
4.
Ải Quang Lộc: Nay thuộc Cố Dương, Bao Đầu, Nội Mông.
5.
Kê Lộc: Nay thuộc Đặng Khẩu, Bayan Nur, Nội Mông.
6.
Dao kinh lộ, lưu lê vàng: Đây đều là những từ đặc thù xuất hiện trong Hán thư,
không có miêu tả cụ thể. Có lẽ đều là từ vựng gốc Hung Nô.
7.
Bồ Phản: Nay thuộc Vĩnh Tế, Sơn Tây.
8.
Đoạn này chép sót một câu nói về việc Y Tà Mạc Diễn xin đầu hàng Hán.
9.
Yểm thắng: Tức là dùng bùa phép để vượt trội hơn người khác, thuộc quan niệm mê
tín xưa.
10.
Lục Kinh: Tức là sáu bộ sách Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Nhạc
và Kinh Xuân Thu. Vì Kinh Nhạc thất lạc vào thời Hán, nên về
sau chỉ còn lại Ngũ Kinh.
11.
Tam Vương: Tức ba triều đại Hạ, Thượng, Chu.
12.
Trí Nhan: Chép nhầm từ chữ “Điền Nhan”. Xem Hung nô truyện (thượng).
13.
Lư Sơn: Tên núi, nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây.
14.
Cô Tăng: Tên một sắc dân ở vùng tây nam Trung Quốc. Xem Tây Nam Di truyện.
15.
Đãng Tả: Một trong các sắc dân Khương ở miền tây Trung Quốc.
16.
Ba cõi: Ở đây chỉ ba phía đông, tây và nam Trung Quốc.
17.
Đồi Bạch Long: Nằm ở phía đông bắc Lop Nur, Tân Cương.
18.
Mười hai bộ: Tức là 12 châu của Trung Quốc lúc bấy giờ.
19.
Dương cửu: Một khái niệm trong thuật số của Đạo giáo Trung Quốc, ở đây chỉ những
năm có hạn hán.
20.
Cung Nô, Thiện vu: “Cung Nô” nghĩa đen là nô tì cung kính; “thiện” trong Thiện
vu nghĩa là điều tốt, điều hay. Vương Mãng thay đổi những danh xưng này nhằm thể
hiện quan điểm coi Hung Nô là phiên thần.
21.
Quân Xích My: Là một trong các thế lực nổi dậy ở Trung Quốc lúc bấy giờ, ban đầu
lấy danh nghĩa chống Vương Mãng. Sau khi Canh Thủy đế Lưu Huyền lật đổ Vương
Mãng, quân Xích My lại nảy sinh mâu thuẫn với Lưu Huyền, rồi tiến vào Trường An
giết vị vua này.
***
Phụ
lục: Thế thứ các đời thiền vu Hung Nô
Comments
Post a Comment