Nguyên sử - An Nam truyện

 

AN NAM TRUYỆN

(Nguyên sử, quyển 209)

 

Niên đại: 1370

Tác giả: Tống Liêm

 

***

 


An Nam xưa là Giao Chỉ. Khi Tần thôn tính thiên hạ, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng. Triều Tần vong, Nam Hải úy Triệu Đà đánh chiếm đất này. Triều Hán đặt chín quận, Giao Chỉ là một trong số ấy. Về sau người đàn bà Trưng Trắc làm phản, nên khiển Mã Viện đánh dẹp, dựng cột đồng làm ranh giới Hán. Thời Đường mới chia Lĩnh Nam làm hai đạo Đông, Tây, đặt Tiết độ [sứ], lập năm quản [1], An Nam lệ vào đấy. Triều Tống phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương, con trai Liễn cũng phong làm vương. Truyền ba đời thì bị Lý Công Uẩn đoạt ngôi, nên liền phong Công Uẩn làm vương. Họ Lý truyền tám đời đến Lý Hạo Sảm. Trần Nhật Cảnh là con rể Hạo Sảm, nên có được nước này.

 

Năm thứ 3 Quý Sửu triều Nguyên Hiến Tông (1254), Ngột Lương Hợp Thai theo Thế Tổ bình Đại Lý. Thế Tổ trở về, để Ngột Lương Hợp Thai ở lại đánh các dân Di chưa quy phụ. Tháng 11 năm thứ 7 Đinh Tỵ (1258), binh của Ngột Lương Hợp Thai đến miền bắc Giao Chỉ, trước hết khiển hai sứ giả đi dụ nhưng không thấy về. [Ngột Lương Hợp Thai] bèn khiển bọn Triệt Triệt Đô mỗi người cầm 1.000 quân, chia đường tiến binh đến đầu nguồn sông Thao ở phía bắc kinh đô An Nam, lại khiển con trai mình A Truật đi làm tiếp viện, cùng xem xét hư thực. Người Giao cũng bày trận phòng vệ. A Truật khiển quân về báo, nên Ngột Lương Hợp Thai gấp rút tiến đến, lệnh Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật ở sau hỗ trợ. Tháng 12, hai quân đụng độ. Người Giao kinh hãi, A Truật thừa cơ đánh bại thủy quân người Giao, cướp chiến hạm đem về. Ngột Lương Hợp Thai cũng phá quân bộ của chúng, lại cùng A Truật hợp công, thắng lớn, rồi tiến vào nước này. Nhật Cảnh chạy ra hải đảo. Tìm thấy sứ giả trước kia khiển đi ở trong ngục, gông tre hằn vào thịt, khi cởi trói thì một sứ chết, vì thế giết sạch cả thành. Quốc binh ở lại chín ngày, thấy khí hậu nóng bức, bèn rút quân. Lại khiển hai sứ giả chiêu dụ Nhật Cảnh đến quy phụ. Nhật Cảnh về, thấy quốc đô đã bị tàn phá thì nổi cơn phẫn nộ, trói hai sứ giả đuổi về.

 

Tháng 9 năm thứ 8 Mậu Ngọ (1259), Nhật Cảnh truyền nước cho con trai trưởng Quang Bính, đổi niên hiệu thành Thiệu Long. Mùa hè, Quang Bính khiển con rể và người trong nước đem phương vật đến gặp. Ngột Lương Hợp Thai đưa đến nơi hành tại [2], khiển riêng Nột Lạt Đinh dụ chúng rằng: “Trước kia ta khiển sứ thông hiếu, bọn ngươi bắt lại không trả về, ta vì thế năm ngoái dấy quân. Thấy quốc chủ ngươi lánh ngoài đồng cỏ, nên lệnh tiếp hai sứ giả đến chiêu an về nước, ngươi lại trói sứ ta trả về. Nay đặc khiển sứ đến dụ, nếu như bọn ngươi một lòng nội phụ thì quốc chủ phải đích thân đến. Nếu không đi được phải báo rõ lại cho ta.” Quang Bính nói: “Nước nhỏ thành tâm phụng sự bề trên, sao nước lớn lại đối đãi như vậy?” Nột Lạt Đinh về báo. Bấy giờ Chư vương Bất Hoa trấn giữ Vân Nam, Ngột Lương Hợp Thai nói với vương, lại khiển Nột Lạt Đinh đi dụ, bắt khiển sứ đi theo cùng. Quang Bính bèn nạp khoản [3], lại nói: “Đợi giáng đức âm [4], sẽ lập tức khiển con em làm tin.” Vương mệnh Nột Lạt Đinh truyền đạt lời tâu [lên triều đình].

 

Tháng 12 năm Trung Thống thứ 1 triều Thế Tổ (1260), lấy Mạnh Giáp làm Lễ bộ Lang trung, sung làm Nam dụ sứ; Lý Văn Tuấn làm Lễ bộ Viên ngoại lang, sung làm phó sứ, mang chiếu sang dụ. Đại lược viết:

Thế Tông lấy võ công dựng nghiệp, văn hóa chưa tu sửa. Trẫm tiếp nối nghiệp lớn, đổi mới thay cũ, coi muôn phương như một. Đúng lúc thủ thần nước Đại Lý là An phủ Nhiếp Chỉ Mạch Đinh chạy ngựa trạm dâng biểu, nói nước khanh thành thực hướng phong mộ nghĩa. Nghĩ rằng khanh vào thời triều trước đã từng thần phục, cống nạp phương vật, nên ban chiếu chỉ dụ quan liêu, sĩ thứ  nước khanh rằng phàm áo mũ, điển lễ, phong tục vẫn dựa theo chế độ cũ nước mình. Đã răn bảo tướng biên giới không được tự tiện dấy binh giáp, xâm lấn bờ cõi, quấy rối nhân dân nước khanh. Quan liêu, sĩ thứ nước khanh đều nên trị yên như cũ.”

Lại dụ bọn Giáp rằng: Nếu như Giao Chỉ cử con em vào chầu phải đối xử tốt, chớ bắt chịu rét bức thất tiết, làm cho khổ nhọc.

 

Năm thứ 2 (1261), bọn Mạnh Giáp trở về. Quang Bính khiển người trong tộc là Thông Thị đại phu Trần Phụng Công, Viên ngoại lang Chư vệ ký ban Nguyễn Sâm, Viên ngoại lang Nguyễn Diễn đến cửa khuyết dâng thư, xin ba năm cống một lần. Hoàng đế đồng ý, bèn phong Quang Bính làm An Nam quốc vương.

 

Tháng 9 năm thứ 3 (1262), lấy 3 tấm gấm tây, 6 tấm gấm vàng ươm ban cho Quang Bính, lại xuống chiếu rằng: “Nếu khanh ủy bề tôi đến làm tin, thì từ năm Trung Thống thứ 4 trở đi cứ ba năm cống một lần, có thể tuyển nho sĩ, thầy thuốc, người thông thạo âm dương bói toán và các hạng thợ thuyền mỗi loại ba người, cùng với các thứ dầu tô hợp, quang hương, vàng, bạc, chu sa, trầm hương, đàn hương, sừng tê, đồi mồi, ngọc trai, ngà voi, vải bông, chén sứ trắng đem kèm đến.” Lại lấy Nột Lạt Đinh sung làm Đạt lỗ hoa xích [5], đeo hổ phù, đi sang nước An Nam.

 

Tháng 11 năm thứ 4 (1264), Nột Lạt Đinh về. Quang Bính khiển Dương An Dưỡng sung làm Viên ngoại lang, cùng bọn Nội lệnh Vũ Phục Hoàn, Thư xá Nguyễn Cầu, Trung Dực lang Phạm Cử dâng biểu tạ ơn. Hoàng đế ban sứ giả đai ngọc, lụa là, thuốc men, yên ngựa có khác nhau. Tháng 7 năm Chí Nguyên thứ 2 (1265), khi sứ về, lại ưu ái xuống chiếu hồi đáp, vẫn ban lịch và chiếu thư đổi niên hiệu.

 

Tháng 11 năm thứ 3 (1266), Quang Bính khiển Dương An Dưỡng dâng biểu nói ba điều: thứ nhất là tiến dâng phương vật, thứ hai xin miễn tìm người tú tài và thợ thuyền, thứ ba nguyện xin Nột Lạt Đinh làm Đạt lỗ hoa xích nước mình lâu dài. Tháng 9 năm thứ 4 (1267), khi sứ về, xuống chiếu trả lời đồng ý, ban Quang Bính các thứ đai ngọc, lụa vàng, thuốc men, yên ngựa. Chưa được bao lâu, lại xuống chiếu dụ sáu việc: một là quân trưởng đích thân đến chầu, hai là cho con em vào làm tin, ba là kiểm kê dân số, bốn là xuất quân dịch; năm là thu nạp thuế má, sáu là vẫn đặt Đạt lỗ hoa xích thống trị. Tháng 11, lại xuống chiếu dụ Quang Bính rằng nước hắn có lái buôn Hồi Cốt [6], muốn dò xét chuyện Tây Vực, nên lệnh phải gửi sang đây. Tháng ấy, xuống chiếu phong hoàng tử làm Trấn Nam vương, đến trấn giữ các nước Đại Lý, Thiện Xiển, Giao Chỉ [7].

 

Tháng 9 năm thứ 5 (1268), lấy Hốt Lung Hải Nha Nột Lạt Đinh làm Đạt lỗ hoa xích, Trương Đình Trân làm phó; lại xuống chiếu đòi lái buôn người Hồi Cốt. Tháng 11 năm thứ 6 (1269), Quang Bính dâng thư trần tình, nói rằng: “Khách buôn Hồi Cốt, một tên là Y Ôn đã chết lâu ngày, một tên là Bà Bà cũng bệnh chết. Lại thấy Hốt Lung Hải Nha nói Bệ hạ tìm kiếm mấy con voi lớn. Thú ấy hình thể rất to, đi lại rất chậm, không như ngựa của thượng quốc. Đợi có sắc chỉ, thì lần cống năm sau sẽ tiến dâng thú.” Lại trình biểu nộp cống và dâng biểu riêng tạ ơn đã ban các thứ gấm tây, lụa là, thuốc men.

 

Tháng 11 năm thứ 7 (1270), Trung thư tỉnh gửi thư cho Quang Bính, nói rằng nhận chiếu không lạy, đón sứ giả không dùng lễ dành cho vương nhân [8], lại dẫn nghĩa Kinh Xuân Thu mà trách; đồng thời lệnh đem voi đã đòi cùng cống phẩm năm nay đến; lại nói thuốc men cống năm trước phẩm vị chưa tốt; việc đòi bọn Hồi Cốt, nếu dối trá thoái thác thì từ nay trở đi sẽ thẩm sát kĩ.

 

Tháng 12 năm thứ 8 (1271), Quang Bính lại gửi thư nói: “Bản quốc khâm phụng Thiên triều, đã phong tước vương, chẳng phải là vương nhân sao? Thế mà phụng sứ của Thiên triều xưng rằng: ‘Vương nhân với ông mà hưởng lễ ngang nhau thì e nhục cho triều đình’. Hơn nữa bản quốc trước kia vâng chiếu chỉ, được lệnh giữ tục cũ. Phàm khi nhận chiếu lệnh, đều phụng an ở chính điện rồi lui về biệt thất, đấy là điển lễ cũ của bản quốc vậy. Việc dụ tìm voi, trước kia sợ trái chỉ nên trù trừ chưa dám trả lời thẳng, nhưng thực ra vì tượng nô không chịu xa nhà, khó lòng sai đi. Lại dụ tìm nhà nho, thầy thuốc, thợ thuyền, nhưng bọn bồi thần Lê Trọng Đà lúc vào bệ yết kiến, cách uy quang có gang tấc nên không nghe rõ chiếu dụ. Huống hồ năm Trung Thống thứ 4 đã được miễn cho, nay lại dụ nữa nên lấy làm kinh ngạc. Mong các hạ thương cho.”

 

Năm thứ 9 (1272), lấy Diệp Thức Niếp làm Đạt lỗ hoa xích ở An Nam, Lý Nguyên làm phó. Tháng giêng năm thứ 10 (1273), Diệp Thức Niếp chết; lệnh Lý Nguyên thay Thức Niếp, lấy Hợp Tát Nhi Hải Nha làm phó. Trung thư tỉnh lại gửi thư cho Quang Bính nói:

Năm trước phụng sứ về nói, vương mỗi khi nhận chiếu lệnh của Thiên tử chỉ chắp tay không bái; khi gặp mặt sứ giả hay dự yến tiệc đều ngồi ở trên sứ giả. Nay xem qua thư, tự nói rằng: ‘Đã nhận vương tước, há chẳng phải vương nhân sao?’ Khảo Kinh Xuân Thu, nói vương nhân ở trên chư hầu. Sách ‘Thích lệ’ [9] viết rằng: Vương nhân nghĩa là hạ sĩ [10]. Ngũ đẳng bang quân [11] là hàng quý trong ngoại thần [12], hạ sĩ là hàng kém trong nội thần [13]. Đặt kẻ kém lên trên kẻ quý, là để vương mệnh được coi trọng. Đời sau liệt vương là tước, rất quý với chư hầu, nhưng đâu phải có tước vương là hơn người ta đâu? Vương há nào không biết mà nói như thế? Hay là vì nghe theo lời nhầm lẫn của bề tôi mà nói thế? Còn như chiếu của Thiên tử, người làm tôi phải bái nhận, đấy là việc thông nghĩa xưa nay chưa từng có ai làm khác. Thế mà nói rằng: ‘Trước kia vâng chiếu chỉ bảo giữ lấy tục cũ, bản quốc tuân phụng mà làm, nên phàm khi nhận chiếu lệnh thì phụng an ở chính điện rồi lui về biệt thất, đấy là điển lễ cũ vậy.’ Đọc đến đấy thực thấy kinh ngạc. Vương nói ra lời ấy, liệu trong tâm vẫn yên sao? Chiếu chỉ trước nói rằng ở trong trời đất có không dưới vạn nước, mỗi nước đều có tục, nếu sứ luôn thay đổi thì có chỗ bất tiện, nên đồng ý cho dùng tục riêng. Chẳng lẽ coi việc bái chiếu của Thiên tử là tục riêng hay sao? Hơn nữa giáo lệnh của vương thi hành trong nước, thần tử có nhận thì cúi lạy, sao vương lại không như vậy? Người quân tử quý ở việc biết sửa lỗi. Nên nghĩ ngợi sâu xa, xem xét cho sáng suốt.”

 

Năm thứ 11 (1274), Quang Bính khiển Đồng Tử Dã, Lê Văn Ẩn đến cống. Tháng giêng năm thứ 12 (1275), Quang Bính dâng biểu xin bãi Đạt lỗ hoa xích ở nước mình. Lời văn viết:

Vy thần [14] nép nơi góc biển, được thấm nhuần thánh hóa như chúng sinh, nên vui mừng cổ vũ. Từ khi thần quy phụ thượng quốc đã hơn mười năm, tuy vâng mệnh ba năm cống một lần, nhưng liên tục khiển sứ thần đi lại mệt mỏi, chưa từng một ngày nghỉ ngơi. Đạt lỗ hoa xích do Thiên triều khiển đến, hạ mình tới bờ cõi của thần, làm sao trở về tay không? Huống hồ người đi cùng có gì cũng cậy vào đấy giày xéo tiểu quốc. Tuy Thiên tử cùng nhật nguyệt soi sáng, làm sao chiếu được đến đáy chậu úp? Hơn nữa Đạt lỗ hoa xích có thể đặt ở nơi Man Di nhỏ nhoi, còn thần đã nhận phong vương, làm phên dậu một phương, mà lại lập Đạt lỗ hoa xích để soi xét, há không bị các nước chư hầu cười chê sao? Vì sợ soi xét mà tu cống, nào phải trong tâm bằng lòng mà tu cống đâu. Thần cung kính nhận tin Thiên triều lập trữ quân , sách phong hậu, ân lớn rót xuống tràn đầy bốn biển, nên mới dám khóc than, cúi mong thánh từ đặc cách thương xót. Sau này sẽ sai khiến tiến cống hai lượt, một đến Thiện Xiển tiến nạp, một đến Trung Nguyên lạy dâng. Phàm các quan Thiên triều khiển đến, xin đổi thành Dẫn tiến sứ [15], miễn cái tệ của Đạt lỗ hoa xích. Đấy không chỉ là niềm vui của vy thần, mà thực là niềm vui của chúng sinh một nước vậy.”

 

Tháng 2, lại xuống chiếu, nói rằng vật cống vô bổ không dùng được và dụ sáu việc. Lại khiển Hợp Tát Nhi Hải Nha sung làm Đạt lỗ hoa xích, vẫn lệnh con em vào chầu. Tháng 2 năm thứ 13 (1276), Quang Bính khiển Lê Khắc Phục, [Lê] Văn Túy [16] vào cống, đem lời tâu đến Thiện Xiển, dâng nộp cống vật, vì có việc bất kính nên dâng biểu tạ tội, đồng thời xin miễn sáu việc.

 

Năm thứ 14 (1277), Quang Bính mất, người trong nước lập thế tử Nhật Huyên [17], khiển Trung Thị đại phu Chu Trọng Ngạn, Trung Lượng đại phu Ngô Đức Thiệu đến triều.

 

Tháng 8 năm thứ 15 (1278), khiển Lễ bộ Thượng thư Sài Thung, Hội đồng quán sứ Ha Lạt Thoát Nhân, Công bộ Lang trung Lý Khắc Trung, Công bộ Viên ngoại lang Đổng Đoan cùng bọn Lê Khắc Phục mang chiếu đi dụ Nhật Huyên vào triều nhận mệnh. Ban đầu, sứ giả khi truyền đạt chỉ đi lại theo đường Thiện Xiển, Lê Hóa [18]. Hoàng đế mệnh Sài Thung từ Giang Lăng trực chỉ Ung Châu để vào Giao Chỉ. Tháng 11 nhuận, Sài Thung đến trại Vĩnh Bình ở Ung Châu. Nhật Huyên khiển người dâng thư, nói rằng: “Nay nghe tin quốc công hạ mình đến tệ cảnh, dân biên giới không ai không kinh ngạc, không biết sứ giả nước nào mà đến đây. Xin hồi quân về đường cũ để tiến.” Thung gửi điệp đáp rằng: “Lễ bộ Thượng thư và các quan vâng mệnh Hoàng thượng, cùng bọn Lê Khắc Phục của bản quốc theo đường Giang Lăng đến Ung Châu vào An Nam, có đem quân binh phòng trộm cướp cùng với ngựa trạm. Nên lên đầu biên giới đón tiếp.” Nhật Huyên khiển Ngự sử trung tán kiêm Tri Thẩm hình viện sự Đỗ Quốc Kế đến trước, Thái úy nước này cũng đem bách quan ra bờ sông Phú Lương nghênh đón vào quán.

 

Ngày 2 tháng 12, Nhật Huyên đến quán gặp sứ giả. Ngày 4, Nhật Huyên bái lạy nghe đọc chiếu thư. Thung truyền chỉ rằng: “Nước khanh nội phụ hơn hai mươi năm, đưa sáu việc mà chưa thấy làm theo. Nếu khanh làm trái triều đình, thì hãy sửa thành chỉnh quân mà tiếp quân ta.” Lại nói: “Cha ông nhận mệnh làm vương, ông chưa xin mệnh mà tự lập, nay lại không vào triều, ngày sau triều đình khép tội thì biết trốn vào đâu. Xin nghĩ kĩ đi.”

 

Nhật Huyên vẫn theo lệ cũ mở yến tiệc ở hành lang, nên Thung từ chối đến tiệc. Khi về quán, Nhật Huyên khiển Phạm minh tự [19] đem thư đến tạ tội, đổi tiệc sang điện Tập Hiền. Nhật Huyên nói:

Vua trước qua đời, ta mới nối ngôi. Thiên sứ đến, mở chiếu thư dụ, khiến ta vừa vui vừa sợ trong ngực. Nghe nói rằng chúa Tống ấu thơ, Thiên tử thương tình nên phong cho tước công, thì với tiểu quốc cũng ắt được thương như vậy. Trước dụ sáu việc, đã xá miễn cho. Còn lễ đích thân vào triều, thì ta sinh trưởng nơi thâm cung, không tập cưỡi ngựa, không hiểu phong thổ, sợ chết dọc đường đi. Con em từ Thái úy trở xuống cũng đều như vậy. Khi thiên sứ về, sẽ kính cẩn dâng biểu bày tỏ lòng thành, hiến kèm vật lạ.”

Thung nói:

Chúa Tống chưa được mười tuổi, cũng sinh trưởng thâm cung, sao cũng đến kinh sư được? Những việc nằm ngoài chiếu thư thì không dám nghe mệnh. Hơn nữa bốn người bọn ta thực đến triệu ông, không lấy lễ vật.”

Khi bọn Thung về, Nhật Huyên khiển Phạm minh tự, Trịnh Quốc Toản [20], Trung tán Đỗ Quốc Kế dâng biểu trần tình, nói rằng:

Cô thần [21] bẩm sinh khí chất yếu ớt, sợ đường sá gian nan, chết phơi xương trắng, khiến Bệ hạ đau buồn mà không ích được một phần vạn cho Thiên triều. Cúi mong Bệ hạ thương tiểu quốc xa xôi, cho thần và mẹ góa con côi được giữ lấy tính mệnh, để phụng sự Bệ hạ đến cùng. Đấy là niềm vui của cô thần, là phúc lớn của sinh linh tiểu quốc vậy.” Cống kèm phương vật và 2 con voi thuần.

 

Tháng 3 năm thứ 16 (1279), Thung về kinh sư trước, để Trịnh Quốc Toản đợi ở Ung Châu. Xu mật viện tâu: “Thấy Nhật Huyên không vào triều, chỉ khiển sứ thần báo mệnh, dối trá thoái thác, dây dưa nhiều năm, tuy xảo nịnh nhiều nhưng rốt cuộc vẫn trái chiếu chỉ. Nên tiến binh đến cõi, khiển quan hỏi tội.” Hoàng đế không nghe, mệnh sứ giả vào chầu. Tháng 11, lưu sứ giả Trịnh Quốc Toản ở lại Hội đồng quán, lại khiển bọn Sài Thung 4 người cùng Đỗ Quốc Kế mang chiếu dụ Nhật Huyên vào triều tiếp: “Nếu quả thực không tự vào chầu được, thì tích vàng thay thân, lấy hai viên ngọc thay mắt, kèm với hiền sĩ, phương kĩ, trai gái, thợ thuyền mỗi loại hai người thay cho thổ dân mình. Bằng không thì sửa sang thành trì, để đợi xét xử.”

 

Tháng 10 năm thứ 18 (1281), lập An Nam Tuyên úy ty, lấy Bốc Nhan Thiết Mộc Nhi làm Tham tri chính sự, Hành Tuyên úy sứ Đô nguyên soái, đặt riêng liêu thuộc có khác nhau. Tháng ấy, xuống chiếu nói rằng: Quang Bính mất, con trai Nhật Huyên chưa xin mệnh mà tự lập, khi khiển sứ đến triệu lại lấy cớ bệnh từ chối, chỉ lệnh chú mình Di Ái vào chầu, nên lập Di Ái thay làm An Nam quốc vương.

 

Tháng 7 năm thứ 20 (1283), Nhật Huyên gửi thư cho Bình chương A Lí Hải Nha xin trả lại sứ giả bị giữ. Hoàng đế liền cho về nước. Bấy giờ A Lí Hải Nha làm Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh Bình chương chính sự, Hoàng đế muốn Giao Chỉ giúp binh lương để đánh Chiêm Thành nên lệnh hắn [viết thư] theo ý mình để dụ Giao Chỉ. Hành tỉnh khiển Ngạc Châu Đạt lỗ hoa xích Triệu Trứ đem thư dụ Nhật Huyên. Tháng 10, triều đình lại khiển Đào Bỉnh Trực mang tỷ thư [22] sang dụ. Tháng 11, Triệu Trứ đến An Nam. Nhật Huyên lại khiển Trung Lượng đại phu Đinh Khắc Thiệu, Trung đại phu Nguyễn Đạo Học mang phương vật theo Trứ vào chầu. Lại khiển Trung Phụng đại phu Phạm Chí Thanh, Triều Thỉnh lang Đỗ Bào Trực đến [hành] tỉnh kể sự tình, và đưa thư cho Bình chương nói rằng:

“Về việc tăng quân: Chiêm Thành phục sự tiểu quốc lâu ngày, lão phụ  chỉ lo dùng đức mà vỗ về, nên bản thân cô tử  cũng kế thừa chí cha. Từ khi lão phụ quy thuận Thiên triều, hơn ba mươi năm có lẻ chưa động tới can qua lại, quân tốt về làm dân đinh, để vừa chăm cống hiến cho Thiên triều, vừa tỏ rõ tâm không hai lòng. Mong các hạ xem xét.

Về việc trợ lương: Địa thế tiểu quốc kề biển, ngũ cốc sản xuất không nhiều. Từ khi đại quân rời đi trăm họ lưu vong, lại thêm lũ lụt, hạn hán, sớm no tối đói, lương thực không có dư để cấp. Nhưng khi các hạ ra mệnh, không dám làm trái nên đã đem đến châu Vĩnh An giáp giới Khâm Châu, chờ đợi thu nạp.

Tiếp tục đến việc dụ người thân cô tử đến cửa khuyết, ngẩng mặt nhận thánh huấn: Lúc lão phụ còn sống, Thiên triều thương tình cho được ở ngoài. Nay lão phụ đã mất, cô tử đau buồn, mắc bệnh đến nay vẫn chưa bình phục. Huống hồ cô tử sinh trưởng cõi xa, không chịu được giá rét, không quen thuộc thủy thổ, sợ đường sá gian nan, chết phơi xương trắng. Thấy bồi thần của tiểu quốc đi lại còn bị trúng khí độc, chết đến năm, sáu phần mười hoặc quá một nửa, các hạ cũng đã biết rõ. Chỉ trông chờ các hạ thương tình mà trình tấu lên Thiên triều, cho biết rằng tông tộc, quan lại của cô tử nhất nhất đều có ý ham sống sợ chết. Chẳng những cô tử đội ơn mà sinh linh một nước cũng được an toàn, cùng chúc các hạ hưởng phúc lớn trời ban lâu dài.”

 

Tháng 3 năm thứ 21 (1284), Đào Bỉnh Trực đi sứ về. Nhật Huyên lại dâng biểu trần tình và gửi thư đến Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh, đại ý giống như thư trước. Lại thấy Quỳnh châu An phủ sứ Trần Trọng Đạt nghe Trịnh Thiên Hựu nói “Giao Chỉ thông mưu với Chiêm Thành, cử 20.000 binh và 500 thuyền làm ứng viện”, nên gửi thư cho hành tỉnh, đại lược rằng: “Chiêm Thành nội thuộc tiểu quốc, khi đại quân đến đánh đáng ra nên khóc than, nhưng chưa từng hé một lời, vì tiểu quốc cũng hiểu thiên thời, nhân sự vậy. Nay Chiêm Thành làm việc phản nghịch, chấp mê bất phục, đấy gọi là không biết trời biết người. Kẻ biết trời biết người, mà cùng kẻ không biết trời biết người đồng mưu, dù đứa trẻ cao ba thước cũng biết là sai, huống hồ là tiểu quốc ư? Mong quý tỉnh xem xét cho.”

 

Tháng 8, em trai Nhật Huyên là Chiêu Đức vương Trần Xán [23] gửi thư đến Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh, tự nguyện nạp khoản quy hàng. Tháng 11, Hành tỉnh Hữu thừa Toa Đô tâu: “Giao Chỉ tiếp giáp với Chiêm Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, có thể lấy đất ấy lập tỉnh; đồng thời đóng quân trấn giữ ở ba đạo Việt Lý [24], Triều Châu, Tỳ Lan [25], lấy lương thực ở đấy mà cấp sĩ tốt, miễn khỏi chuyên chở đường biển khó nhọc.”

 

Tháng 3 năm thứ 22 (1285), Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh tâu: “Trấn Nam vương ngày trước vâng chỉ cầm quân chinh phạt Chiêm Thành, khiển Tả thừa Đường Ngột Đãi chạy ngựa trạm đến Chiêm Thành, hẹn Hữu thừa Toa Đô cầm binh hội hợp. Lại khiển Lí vấn quan Khúc Liệt, Tuyên sứ Đáp Hải Tát Lý cùng sứ giả nước An Nam là Nguyễn Đạo Học đem công văn của hành tỉnh đến đòi Nhật Huyên chở lương sang Chiêm Thành để giúp quân, đợi khi Trấn Nam vương đi đến gần cõi sẽ ra lệnh tới gặp.

 

Khi quan quân đến huyện Hoành Sơn, nghe tin Nhật Huyên cùng anh trai Hưng Đạo vương Trần Tuấn đem binh lên biên giới. Thế rồi Khúc Liệt và Đáp Hải Tát Lý dẫn Trung Lượng đại phu Trần Đức Quân, Triều Tán lang Trần Tự Tông của An Nam đến, mang thư của Nhật Huyên nói rằng từ nước mình đi sang Chiêm Thành bằng đường thủy bộ không tiện, xin tùy sức dâng hiến quân lương. Khi quan quân đến Vĩnh Châu, Nhật Huyên gửi điệp sang Ung Châu, nói rằng: “Hạn cống định vào tháng 10, xin cho chuẩn bị sức đinh trước. Khi nào Trấn Nam vương xuống xe, sẽ gửi biểu văn báo cho.” Hành tỉnh lệnh Vạn hộ Triệu Tu Kỷ theo ý mình mà viết thư đáp, lại gửi công văn lệnh mở đường sá, chuẩn bị lương, tự thân nghênh đón Trấn Nam vương.

 

Khi quan quân đến Ung Châu, Điện tiền Phạm Hải Nhai của An Nam lĩnh binh đóng ở các xứ Khả Ly, Đại Trợ. Đến châu Tư Minh, Trấn Nam vương lại lệnh gửi thư. Đến châu Lộc, lại nghe tin Nhật Huyên điều binh chống giữ dãy Khâu Ôn, Khâu Cấp để chặn đường. Hành tỉnh bèn chia quân tiến theo hai đường. Nhật Huyên lại khiển Thiện Trung đại phu Nguyễn Đức Dư, Triều Thỉnh lang Nguyễn Văn Hàn dâng thư cho Trấn Nam vương, nói rằng: “Không đích thân đến gặp uy quang được, nhưng trong lòng vui mừng. Trước kia được nhận thánh chiếu nói rằng: ‘Đã sắc quân ta không vào cõi khanh’, nhưng nay thấy dinh trạm cầu cống ở Ung Châu nối nhau san sát, thật lấy làm kinh sợ. Mong soi xét lòng trung thành, gia cho một chút thương xót.” Lại gửi thư cho Bình chương chính sự, xin bảo hộ sinh linh bản quốc tránh khỏi cảnh chạy nạn. Trấn Nam vương mệnh Hành tỉnh khiển Tổng bả A Lý đem thư, cùng Đức Dư đến dụ Nhật Huyên rằng việc hưng binh thực sự là vì Chiêm Thành, không phải vì An Nam.

 

Đến châu Cấp Nguyên, quan quản quân của An Nam là Nguyễn Lộc đóng binh ở châu Thất Nguyên, và ở các xứ Thôn Lý, Huyện Đoản, Vạn Kiếp đều có quân của Hưng Đạo vương. A Lý không tiến được. Hành tỉnh lại mệnh Nghê Nhuận đến xem hư thực, châm chước điều quân, nhưng không được giết hại người dân. Chưa được bao lâu thì Tát Đáp Nghi, Lý Bang Hiến, Tôn Hựu đều nói: Khi đến ải Khả Ly, gặp quân Giao chặn đánh. Hựu đánh nhau với chúng, bắt được Quản quân Phụng ngự Đỗ Vĩ, Đỗ Hựu, mới biết Hưng Đạo vương quả nhiên lĩnh binh chống cự. Quan quân qua ải Khả Ly, đến ải Động Bản lại gặp quân của chúng, đánh bại được, tướng cầm đầu Tần Sầm Trung bị thương mà chết. Nghe tin Hưng Đạo vương ở ải Nội Bàng nên lại tiến binh đến thôn Biện Trụ, dụ chúng thu binh mở đường, đón lạy Trấn Nam vương, nhưng không nghe. Đến ải Nội Bàng, vâng lệnh chỉ sai người chiêu dụ, vẫn không nghe. Quan quân bèn chia làm sáu đường tiến công, bắt tướng của chúng là Đại liêu ban Đoàn Thai. Hưng Đạo vương chạy trốn.

 

[Quan quân] truy đuổi đến Vạn Kiếp, tấn công các ải, đều phá được. Hưng Đạo vương vẫn còn hơn nghìn chiếc binh thuyền. Khi cách Vạn Kiếp 10 lí, khiển binh sĩ đi dọc sông tìm thuyền và tụ ván gỗ, đinh, đá vôi, chế tạo [thuyền] ngoài bãi. Tuyển thủy quân các cánh, lệnh Ô Mã Nhi Bạt Đô thống lĩnh, đánh với chúng mấy lần đều thắng. Thu được hai tờ giấy viết chữ bỏ lại bên bờ sông, là thư của Nhật Huyên gửi Trấn Nam vương và Hành tỉnh Bình chương, xưng rằng:

Chiếu trước nói: ‘Đã sắc quân ta không vào cõi khanh’. Nay lấy cớ Chiêm Thành đã thần phục mà làm phản để phát đại quân, tràn qua bản quốc, tàn hại trăm họ. Đấy là Thái tử [26] đã làm trái, chứ không phải do bản quốc. Cúi mong chớ đi quá chiếu trước, thu hồi đại quân. Bản quốc đang chuẩn bị cống vật đem hiến, cũng có khác với trước.”

Hành tỉnh lại gửi thư sang, cho rằng:

Triều đình điều binh đánh dẹp Chiêm Thành, nhiều lần gửi thư cho Thế tử [27] sai mở đường sá, chuẩn bị lương. Chẳng ngờ lại cố làm trái mệnh triều đình, sai bọn Hưng Đạo vương đem binh chống cự, bắn quân ta bị thương. Sinh linh An Nam gặp họa, là do nước ngươi gây ra. Lệnh đại quân đi qua nước ngươi đến đánh Chiêm Thành, là mệnh của Hoàng thượng. Thế tử phải nhớ nước mình quy phụ đã lâu, nên thể theo đức yêu thương rộng lượng của Hoàng đế, lập tức thoái binh mở đường, dụ an trăm họ chăm lo kiếm sống. Quân ta đi qua, sẽ không quấy nhiễu chút nào. Thế tử nên ra đón Trấn Nam vương, cùng bàn việc quân. Bằng không, đại quân sẽ dừng ở An Nam mà mở phủ.”

Rồi lệnh sứ giả Nguyễn Văn Hàn truyền đạt.

 

Quan quân bắt được người dân, nói rằng Nhật Huyên điều các quân Thánh Dực và hơn nghìn chiếc thuyền giúp Hưng Đạo vương chặn đánh. Trấn Nam vương bèn cùng các quan hành tỉnh đích thân ra bờ đông sông, khiển binh tấn công, sát thương rất nhiều, đoạt hơn 20 chiếc thuyền; Hưng Đạo vương thua chạy. Quan quân buộc bè làm cầu, tiến đến bờ bắc sông Phú Lương. Nhật Huyên bố trí binh thuyền ven sông, dựng hàng rào gỗ, thấy quan quân đến bờ liền phát pháo [28], hô to khiêu chiến. Đến chiều tối, lại khiển Nguyễn phụng ngự [29] dâng thư cho Trấn Nam vương và các quan hành tỉnh, xin đại quân lui một chút. Hành tỉnh lại viết thư trách, rồi tiến binh tiếp. Nhật Huyên bèn bỏ thành chạy trốn, nhưng lệnh Nguyễn Hiệu Duệ dâng thư tạ tội và hiến phương vật, lại xin rút quân. Hành tỉnh lại gửi thư chiêu dụ, rồi điều binh vượt sông, đóng trại dưới chân thành An Nam.

 

Hôm sau, Trấn Nam vương vào trong thành, cung thất trống không, chỉ còn lại chiếu sắc giáng xuống và công văn của Trung thư tỉnh, đều bị hủy sạch. Bên ngoài có giấy tờ, đều là lời báo của các tướng ở biên giới nam bắc về quan quân và sự tình chống cự. Nhật Huyên tiếm xưng làm Đại Việt quốc chúa Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu hoàng đế Trần Uy Hoảng, nhường ngôi cho Hoàng thái tử, lập Thái tử phi làm Hoàng hậu. Trên biểu chương dâng lên Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu dùng ấn “Hạo thiên hành mệnh chi bảo.” Nhật Huyên ở ngôi Thái thượng hoàng, kiến lập con mình làm An Nam quốc vương, dùng niên hiệu Thiệu Bảo. Cung thất có năm cửa, treo biển “Đại Hưng chi môn”, tả hữu có cửa ngách. Chính điện có chín gian, gọi là “Thiên An ngự điện”. Ở cửa chính nam là gác Triều Thiên. Lại treo bảng khắp nơi viết rằng: “Phàm các quận huyện trong nước, giả như có giặc ngoài đến thì phải tử chiến. Nếu sức không địch nổi, cho phép chạy trốn vào nơi núi đầm, không được đầu hàng.” Nơi hiểm trở chống giữ đều có nhà kho trữ binh giáp. Số quân bỏ thuyền lên bờ vẫn còn đông. Nhật Huyên dẫn tông tộc và quan lại về Thiên Trường, Trường Yên đồn tụ. Hưng Đạo vương, Phạm điện tiền [30] lĩnh binh thuyền tụ lại ở cửa sông Vạn Kiếp; Nguyễn Lộc đóng tại Vĩnh Bình ở đường phía tây.

 

Hành tỉnh chỉnh đốn quân chuẩn bị truy kích, để đại quân hội hợp với binh của Đường Ngột Đãi và Toa Đô từ Chiêm Thành đến. Từ khi vào cõi, đánh 7 trận lớn nhỏ, chiếm đất 2.000 lí và 4 khu vương cung. Ban đầu, thắng được binh của Chiêu Minh vương, rồi đánh Chiêu Hiếu vương. Các quan Đại liêu hộ đều chết, Chiêu Minh vương chạy xa không dám quay lại. Ở Diễn Châu, Thanh Hóa, Trường Yên lại bắt được con rể của Trần thượng thư triều Tống và bọn Lương phụng ngự, Triệu Mãng Tín, Diệp lang tướng của Giao Chỉ hơn 400 người.

 

Vạn hộ Lý Bang Hiến, Lưu Thế Anh lĩnh quân mở đường từ Vĩnh Bình vào An Nam, cứ 30 lí lập 1 trại, 60 lí lập 1 dịch trạm, mỗi 1 trại 1 trạm đóng 300 quân trấn thủ tuần tra. Lại lệnh Thế Anh lập đồn, chuyên trông coi việc công ở các trại và trạm. Hữu thừa Khoan Triệt dẫn Vạn hộ Mang Cổ Đãi, Bột La Hà Đáp Nhi theo đường bộ; Lý Tả thừa dẫn Ô Mã Nhi Bạt Đô theo đường thủy, đánh bại binh thuyền của Nhật Huyên, bắt được Kiến Đức hầu Trần Trọng. Nhật Huyên chạy trốn, đuổi đến cửa biển Giao thì không biết đã đi đâu. Người tông tộc là Văn Nghĩa hầu [31], cha là Vũ Đạo hầu, con là Minh Trí hầu, con rể là Chương Hoài hầu; cùng Chương Hiến hầu, quan cũ nhà Tống là Tằng tham chính, con trai Tô thiếu bảo là Tô Bảo Chương, con trai Trần thượng thư là Trần Đinh Tôn nối nhau đem người đến hàng.

 

Đường Ngột Đãi, Lưu Khuê đều nói Chiêm Thành không có lương thực, quân khó trú lâu. Trấn Nam vương lệnh Toa Đô dẫn quân Nguyên đi gom lương ở các xứ Trường Yên. Nhật Huyên đến cửa biển An Bang, bỏ thuyền bè giáp trượng, chạy vào rừng núi. Quan quân thu được hàng vạn chiếc thuyền, chọn chiếc tốt mà dùng, còn lại đốt hết; lại đuổi theo theo đường bộ suốt ba ngày đêm. Bắt được người dân khai rằng Thượng hoàng và Thế tử chỉ còn có 4 chiếc thuyền; Hưng Đạo vương và con trai có 3 chiếc; Thái sư có 80 chiếc, chạy vào phủ Thanh Hóa. Toa Đô cũng báo: Nhật Huyên và Thái sư chạy vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi Bạt Đô đem 1.300 quân, 60 chiến thuyền đến giúp Toa Đô tập kích quân của Thái sư. Lại lệnh Đường Ngột Đãi truy đuổi Nhật Huyên ở ven biển, nhưng cũng không biết đã đi đâu.

 

Em trai Nhật Huyên là Trần Ích Tắc đem người trong họ cùng vợ con, quan lại đến hàng. Bèn khiển bọn Minh Lý, Tích Ban đưa Chương Hiến hầu, Văn Nghĩa hầu và em trai là Minh Thành hầu, con của Chiêu Quốc vương là Nghĩa Quốc hầu vào triều. Văn Nghĩa hầu đến được đất bắc, còn Chương Hiến hầu, Nghĩa Quốc hầu đều bị Hưng Đạo vương chặn giết. Chương Hiến hầu chết, Nghĩa Quốc hầu thoát thân trở về trong quân

 

Quan quân họp các tướng, bàn rằng: “Người Giao chống cự quan quân, tuy thua chạy nhiều lần, nhưng binh ngày một đông. Quan quân khốn khó, tử thương cũng nhiều, ngựa chiến Mông Cổ cũng không thể trổ tài.” Rồi bỏ kinh thành, vượt sông qua bờ bắc, quyết bàn rút binh về châu Tư Minh. Trấn Nam vương cho là đúng, bèn dẫn binh quay về. Hôm ấy, Lưu Thế Anh đánh nhau với hơn 20.000 binh của Hưng Đạo vương, Hưng Ninh vương. Khi quan quân đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên khiển Hoài Văn hầu đến đánh. Đi đến sông Sách, buộc cầu phao vượt sông. Các quân của Tả thừa Đường Ngột Đãi chưa qua sông thì mai phục trong rừng xông ra, quan quân chết đuối nhiều, gắng sức đánh mới rời được cõi. Bọn Đường Ngột Đãi chạy ngựa trạm về tâu lên.

 

Tháng 7, Xu mật viện xin tháng 10 năm nay điều binh hội ở Đàm Châu, cho Trấn Nam vương và A Lý Hải Nha chọn soái thống lĩnh. Tháng giêng năm thứ 23 (1286), xuống chiếu cho tỉnh thần cùng bàn, rồi cử đại binh nam phạt. Tháng 2, xuống chiếu dụ quan lại, bách tính An Nam, kể tội ác của Nhật Huyên, nói việc giết hại người chú Trần Di Ái và không nhận Đạt lỗ hoa xích Bất Nhan Thiết Mộc Nhi. Thấy bọn Trần Ích Tắc tự rời bỏ đến quy phụ, nên phong Ích Tắc làm An Nam quốc vương, Tú Hoãn làm Phụ Nghĩa công để thờ cúng họ Trần. Mệnh Trấn Nam vương Thoát Hoan, Tả thừa tướng A Lí Hải Nha bình định nước này, đem binh đưa Ích Tắc về. Tháng 5, phát sĩ tốt ở dưới quyền Mang Cổ Đài hợp với quân hành tỉnh ở Ngạc Châu, cùng đi đánh. Quan quân vào cõi, Nhật Huyên lại bỏ thành chạy trốn [32].

 

Tháng 6, Hồ Nam Tuyên úy ty tâu rằng:

Mấy năm liền chinh phạt Nhật Bản và dụng binh với Chiêm Thành, trăm họ khổ vì chuyên chở, phú dịch nặng nề, sĩ tốt gặp chướng lệ phần nhiều tử thương, chúng sinh sầu thán, tứ dân phế nghiệp, người nghèo bỏ con để kiếm đường sống, người giàu bán của mà lo phú dịch, không thể chịu cái khổ đảo huyền [33] thêm ngày nào nữa. Nay lại có việc với Giao Chỉ, động tới trăm vạn dân chúng, tốn kém chi phí nghìn vàng, không phải là thương yêu sĩ dân vậy. Hơn nữa trong việc động binh, lợi hại không chỉ có một, trong khi Giao Chỉ từng khiển sứ nạp biểu xưng phiên, nếu nghe theo thỉnh cầu của họ để cứu sức dân thì là kế trên hết vậy. Bằng không, nên khoan thư phú thuế cho trăm họ, tích lương thực, sửa giáp binh, đợi đến năm thiên thời có lợi rồi mới đại cử, cũng chưa phải muộn.”

Bề tôi Hồ Quảng Hành tỉnh là Tuyến Ca khen lời bàn, khiển sứ vào tâu, lại nói:

Bản tỉnh trấn giữ hơn 70 nơi, chinh chiến liên tục mấy năm, sĩ tốt tinh nhuệ đã bỏ mạng ở ngoài, số còn lại đều già yếu, mỗi thành ấp dù nhiều cũng không quá 200 người, sợ rằng kẻ gian dòm ngó được hư thực. Năm trước Bình chương A Lí Hải Nha xuất chinh, thu lương 30.000 thạch mà dân đã than khổ, nay vẫn chưa khôi phục số ấy. Quan không có tích trữ, phải mua thóc trong dân gian, thì trăm họ sẽ khốn khổ khôn xiết. Nên theo lời Tuyên úy ty, xin hoãn quân Nam phạt.”

Xu mật viện báo lên, thì Hoàng đế hôm sau lập tức xuống chiếu dừng quân, cho sĩ tốt trở về doanh trại. Ích Tắc theo quân về Ngạc [Châu].

 

Tháng giêng năm thứ 24 (1287), phát quân tân phụ [34] đi theo A Bát Xích đánh dẹp An Nam. Lại xuống chiếu phát 70.000 quân Mông Cổ, Hán, Khoán [35] ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng; 500 chiếc thuyền; 6.000 lính Vân Nam; 15.000 quân người Lê bốn châu ngoài biển [36]; Hải đạo vận lương Vạn hộ Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn, Đào Đại Minh vận chuyển 70.000 thạch lương, chia đường mà tiến. Đặt Chinh Giao Chỉ Hành thượng thư tỉnh, Áo Lỗ Xích làm Bình chương chính sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham tri chính sự coi sóc, cùng chịu sự tiết chế của Trấn Nam vương. Tháng 5, mệnh Hữu thừa Trình Bằng Phi về Kinh Hồ hành tỉnh nắm binh. Tháng 6, Xu mật viện lại tâu xin lệnh cho Ô Mã Nhi và Phàn tham chính cầm quân sĩ thủy bộ cùng tiến. Tháng 9, lấy Quỳnh Châu An phủ sứ Trần Trọng Đạt, An Ninh Quân dân Tổng quản Tạ Hữu Khuê, Duyên Lan Quân dân Tổng quản Phù Tý Thành xuất binh thuyền giúp đánh Giao Chỉ, đều được lệnh tòng chinh. Nhật Huyên khiển bọn Trung đại phu Nguyễn Văn Thông vào cống.

 

Tháng 11, Trấn Nam vương đến Tư Minh, để lại 2.500 binh, mệnh Vạn hộ Hạ Chỉ thống lĩnh để giữ xe hàng. Trình Bằng Phi, Bột La Hợp Đáp Nhi đem 10.000 quân Hán, Khoán theo đường phía tây qua Vĩnh Bình; Áo Lỗ Xích đem 10.000 quân theo Trấn Nam vương đi đường phía đông qua ải Nữ Nhi mà tiến; A Bát Xích đem 10.000 quân làm tiên phong. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đem 10.000 quân đi đường biển, qua các cửa Ngọc Sơn, Song Môn, An Bang, gặp hơn 400 chiếc thuyền Giao Chỉ, đánh với chúng, chém hơn 4.000 thủ cấp, bắt sống hơn trăm người, đoạt trăm chiếc thuyền, rồi đi tiếp đến Giao Chỉ. Trình Bằng Phi, Bột La Hợp Đáp Nhi đi qua ba cửa ải Lão Thử, Hãm Sa, Tỳ Trúc, đánh 17 trận đều thắng cả.

 

Tháng 12, Trấn Nam vương đến kênh Mao La; Hưng Đạo vương chạy trốn. Nhân đó tấn công trại Phù Sơn, phá được. Lại mệnh Trình Bằng Phi, A Lý đem 10.000 binh giữ Vạn Kiếp, dựng hàng rào gỗ ở núi Phổ Lại và núi Chí Linh. Mệnh Ô Mã Nhi cầm quân thủy, A Bát Xích cầm quân bộ đi đường tắt đến thành Giao Chỉ. Trấn Nam vương đem các quân vượt sông Phú Lương đến chân thành, đánh bại quân giữ thành. Nhật Huyên cùng con trai bỏ thành chạy về đồn Cảm Nam, các quân công hạ được.

 

Tháng giêng năm thứ 25 (1288), Nhật Huyên cùng con trai lại chạy ra biển. Trấn Nam vương đem các quân đuổi theo, đến cửa biển Thiên Trường thì không biết chúng ở đâu, nên dẫn binh quay về thành Giao Chỉ. Mệnh Ô Mã Nhi cầm thủy binh ra cửa Đại Bàng đón thuyền lương của Trương Văn Hổ, còn bọn Áo Lỗ Xích, A Bát Xích chia đường vào núi tìm lương thực. Nghe tin Giao Chỉ tập trung binh ở Cá Trầm, Cá Lê, Ma Sơn, Ngụy Trại nên phát binh phá hết, chém hơn 10.000 thủ cấp.

 

Tháng 2, Trấn Nam vương dẫn binh về Vạn Kiếp. A Bát Xích cầm quân tiên phong, đoạt ải bắc cầu, phá cửa Tam Giang, công hạ 32 đồn, chém hơn 10.000 thủ cấp, thu được 200 chiếc thuyền, 13.000 thạch thóc. Ô Mã Nhi theo cửa Đại Bàng đến Tháp Sơn, gặp hơn 1.000 chiếc thuyền giặc, đánh phá được. Đến cửa An Bang, không thấy thuyền của Trương Văn Hổ nên lại quay về Vạn Kiếp, lấy được hơn 40.000 thạch gạo. Hàng rào gỗ ở núi Phổ Lại, Chí Linh đã làm xong, nên mệnh các quân đến ở đấy. Các tướng nhân đấy nói: “Giao Chỉ không có thành trì để thủ, không có kho tàng để ăn. Thuyền lương Trương Văn Hổ không đến, hơn nữa thời tiết đã nóng, e lương cạn quân mỏi, không ở lâu được, làm hổ thẹn triều đình. Nên đem toàn quân quay về.” Trấn Nam vương nghe theo, mệnh Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp cầm thủy binh về trước, Trình Bằng Phi, Đáp Xuất cầm binh hộ tống. Tháng 3, Trấn Nam vương đem các quân quay về.

 

Thuyền lương của Trương Văn Hổ tháng 12 năm trước đến Đồn Sơn, gặp 30 chiếc thuyền Giao Chỉ. Văn Hổ đánh nhau với chúng, thương vong tương đương. Đến biển Lục Thủy, thuyền giặc rất đông, ước lượng không địch nổi, mà thuyền lại nặng không đi được, bèn đổ gạo xuống biển, chạy về Quỳnh Châu. Thuyền lương của Phí Củng Thìn tháng 11 đến Huệ Châu, gặp gió không tiến được, trôi dạt đến Quỳnh Châu thì gặp Trương Văn Hổ. Thuyền lương của Từ Khánh trôi dạt đến Chiêm Thành, rồi cũng về Quỳnh Châu. Mất mát gồm sĩ tốt 220 người, thuyền 11 chiếc, lương thực hơn 14.300 thạch.

 

Trấn Nam vương đến ải Nội Bàng thì bị quân giặc tập kích, vương đánh phá được. Mệnh Vạn hộ Trương Quân đem 3.000 quân tinh nhuệ đi sau, dốc sức đánh để rời ải. Gián điệp biết được Nhật Huyên cùng con trai và Hưng Đạo vương chia hơn 300.000 quân giữ ải Nữ Nhi và dãy Khâu Cấp, nối liền hơn trăm lí để chặn đường về của quân. Trấn Nam vương bèn đi qua huyện Đơn Dĩ đến châu Lộc, đi đường tắt rời cõi, đến châu Tư Minh. Mệnh Ái Lỗ dẫn binh về Vân Nam, Áo Lỗ Xích đem các quân về bắc.

 

Nhật Huyên lại khiển sứ đến tạ tội, dâng người vàng chịu tội thay mình. Tháng 11, lấy bọn Lưu Đình Trực, Lý Tư Diễn, Vạn Nô đi sứ An Nam, đem chiếu dụ Nhật Huyên đến triều. Tháng 2 năm thứ 26 (1289), bề tôi Trung thư tỉnh tâu rằng đã bãi chinh Giao Chỉ, nên thu hồi phù ấn của Hành tỉnh. Tháng 4, Nhật Huyên khiển bọn Trung đại phu Trần Khắc Dụng đến cống phương vật. Năm thứ 27 (1290), Nhật Huyên mất, con trai là Nhật Tôn [37] khiển sứ đến cống.

 

Tháng giêng năm thứ 28 (1291), Trấn thủ Vĩnh Châu Lưỡng Hoài, Vạn hộ phủ Thượng thiên hộ Thái Vinh dâng thư, nói đại yếu về việc quân, rằng triều đình thưởng phạt không minh bạch, sĩ tốt không nghe lệnh, tướng soái không hòa hợp, để mất thời cơ, tệ ấy có nói ra cũng không hết. Thư dâng lên không được trả lời.

 

Tháng 9 năm thứ 29 (1292), khiển Lại bộ Thượng thư Lương Tằng, Lễ bộ Lang trung Trần Phu lại mang chiếu sang dụ Nhật Tôn đến triều. Chiếu viết: “Biểu của tỉnh đã kể hết. Năm trước Lễ bộ Thượng thư Trương Lập Đạo nói Tằng từng đến An Nam, hiểu sự thể nước đấy, nên xin cho đi dụ khanh đến chầu. Vì thế khiển Lập Đạo sang đấy. Nay nước khanh đã tự giãi bày tội lỗi, Trẫm cũng trách gì nữa. Nhưng nói mình mồ côi và sợ chết dọc đường không dám đến triều. Thế có thứ gì sinh ra mà được an toàn lâu dài sao? Thiên hạ cũng có đất nào là bất tử đâu? Trẫm chưa cần dụ, đáng lẽ khanh phải biết rõ. Lại đem lời dối trá và tiền của để che đậy cho việc khinh khi, thì nghĩa ở đâu?”

 

Năm thứ 30 (1293), Lương Tằng đi sứ về. Nhật Tôn khiển bọn bồi thần Đào Tử Kỳ đến cống. Đình thần cho rằng Nhật Tôn rốt cuộc vẫn không vào chầu, nên lại bàn việc chinh phạt. Giữ Tử Kỳ ở lại Giang Lăng, mệnh Lưu Quốc Kiệt và bọn chư hầu vương Diệc Cát Lý Đãi cùng đi đánh An Nam, sắc dụ đến Ngạc Châu bàn với Ích Tắc. Tháng 8, bọn Bình chương Bất Nhẫn Mộc tâu xin lập Hồ Quảng An Nam Hành tỉnh, cấp 2 chiếc ấn, mua 2.000 chiếc thuyền trăm hộc của người Đản, dùng 56.570 quân, 350.000 thạch lương, 200.000 thạch thức ăn cho ngựa, 210.000 cân muối, dự tính lương bổng cấp cho các quan trong quân, cho quân nhân thủy thủ 2 néntiền giấy, khí trượng hơn 70 vạn. Quốc Kiệt đặt mạc quan [38] 11 người, quân thủy bộ chia đường cùng tiến. Lại lấy Giang Tây Hành Xu mật viện phó sứ Triệt Lý Man làm Hữu thừa, tòng chinh An Nam; bọn Trần Nham, Triệu Tu Kỷ, Vân Tòng Long, Trương Văn Hổ, Sầm Hùng cùng được lệnh cùng giúp việc. Ích Tắc theo quân đến Trường Sa, gặp lúc nghỉ binh nên dừng lại.

 

Tháng 5 năm thứ 31 (1294), Thành Tông mới lên ngôi, mệnh bãi chinh phạt, cho Đào Tử Kỳ về nước. Nhật Tôn khiển sứ dâng biểu chia buồn, đồng thời hiến phương vật. Tháng 6, khiển Lễ bộ Thị lang Lý Khán, Binh bộ Lang trung Tiêu Thái Đăng đem chiếu sang phủ dụ, đại lược rằng: “Tiên hoàng đế vừa bỏ thiên hạ, Trẫm thừa kế đại thống. Vì mới lên ngôi, ban chiếu xá hựu bất kể xa gần. Riêng nước An Nam khanh cũng được khoan hựu. Đã sắc hữu ty bãi binh, cho bồi thần Đào Tử Kỳ về nước. Từ nay trở đi phải biết sợ trời thờ lớn. Nhớ lấy cho kĩ.”

 

Tháng 2 năm Đại Đức thứ 5 (1301), bọn Thái phó Hoàn Trạch tâu rằng sứ An Nam là Đặng Nhữ vẽ trộm bản đồ vẽ cung uyển, mua riêng các thứ dư địa đồ và sách cấm, lại sao chép văn thư ghi lại việc chinh phạt Giao Chỉ và ghi chép riêng về quân tình biên giới phía bắc và việc ở sơn lăng. Khiển sứ đem chiếu, trách cứ theo đại nghĩa. Tháng 3, khiển Lễ bộ Thượng thư Mã Hợp Mã, Lễ bộ Thị lang Kiều Tông Lượng đem chiếu dụ Nhật Tôn, đại ý rằng: “Bọn Nhữ Lâm hành xử trái phép, đáng phải trừng trị. Trẫm độ lượng với thiên hạ, nên sắc hữu ty thả về. Từ nay sứ giả nhất thiết phải tuyển trạch kĩ, có xin việc gì phải tận tình thành thật. Còn nếu dùng lời hư vô lừa dối, cũng chẳng ích thêm gì. Chớ ngại sửa chữa, để sau hối hận.” Trung thư tỉnh lại giao thư cho bọn Vạn hộ Trương Vinh Thực 2 người, cho sứ giả đi cùng về.

 

Khi Vũ Tông mới lập, xuống chiếu dụ An Nam, nên nhiều lần sai sứ đến cống. Tháng 8 năm Chí Đại thứ 4 (1310), Thế tử Trần Nhật Trường khiển sứ dâng biểu đến triều.

 

Tháng giêng năm Hoàng Khánh thứ 2 triều Nhân Tông (1313), quân Giao Chỉ ước chừng hơn 30.000 lính, hơn 2.000 kỵ xâm phạm động Vân ở châu Trấn An , cướp giết cư dân, đốt cháy kho tàng, nhà cửa. Lại hãm các động Lộc, động Tri, cướp người dân, gia súc cùng tài sản của cư dân rồi về. Lại chia binh ba đường xâm phạm châu Quy Thuận, đóng binh lại chưa rút. Triều đình bàn sai hành tỉnh Hồ Quảng phát binh đánh dẹp. Tháng 4, lại có tin báo: Thế tử Giao Chỉ đích thân lĩnh binh đốt sở quan, nhà dân ở châu Dưỡng Lợi, giết hại hơn 2.000 người, lại nói phao rằng: “Trước kia châu Quy Thuận ở sông Hữu năm lần cướp lộ Đại Nguyên, bắt hơn nghìn sinh khẩu của ta. Tri Dưỡng Lợi châu sự Triệu Giác bắt thương nhân châu Tư Lãng của ta, lấy một nén vàng, xâm lấn hơn nghìn khoảnh ruộng, nên đến giết để trả thù.”

 

Tháng 6, Trung thư tỉnh sai Binh bộ Viên ngoại lang A Lí Ôn Sa, Xu mật viện sai Thiên hộ Lưu Nguyên Hanh cùng đến Hồ Quảng hành tỉnh xét hỏi. Bọn Nguyên Hanh đích thân đến các thôn Thượng Do, Trung Do, Hạ Do, cùng xem đất đai, hỏi năm người nông dân, lại khiển Hạ Tư Minh Tri châu Hoàng Tung Thọ đến gặn hỏi, cho rằng là do nô tì của con trai Nguyễn Lộc Thế [39] là Thái Sử, nhưng cũng chưa biết có đúng không. Vì thế gửi thư dụ An Nam, đại lược viết:

Xưa kia Hán đặt chín quận, Đường lập năm quản, An Nam thực là đất đã hưởng thanh giáo. Huống hồ hiến địa đồ dâng lễ cống, trên dưới phân chia rõ ràng; đối đãi hậu báo đáp kém, ơn huệ vỗ về cũng đến được. Thánh triều thực đâu phụ quý quốc, sao nay tự tác không yên, dấy ra tai họa? Tuy đất đai thôn Do nhỏ bé, nhưng bờ cõi quan ải của nước nhà rất hệ trọng. Số bị giết bị bắt đều là những hộ nằm trong sổ sách triều đình, tỉnh viện chưa dám tâu lên. Sao còn chưa thẩm tra ai thực là chủ mưu sai trái ấy?

An Nam gửi thư đáp:

Ngoài biên bọn chuột chó trộm cướp, tự tác không yên, bản quốc nào có biết đâu?”

Lại đem của đút đến. Nguyên Hanh gửi thư trách An Nam dối trá không thành thực, khước từ của đút, lại nói:

Vàng bạc, ngà voi, quý quốc cho là quý báu, nhưng sứ giả coi việc không tham là quý báu. Vật đem đến đã giao sứ mang về. Xin thẩm sát sự tình, làm rõ rồi báo ta.”

Nhưng đường sá xa xôi, lời lẽ dối trá, rốt cuộc chẳng biết được điểm chính. Bọn Nguyên Hanh suy nguyên do rằng:

Vì người Giao trước kia từng xâm phạm bờ cõi Vĩnh An, nay lại bắt chước thành quen. Lại nghe nói con trai Nguyễn Lộc Thế là kẻ ngang tàng ở Giao Chỉ. Kế sách hiện nay tốt hơn hết là khiển sứ dụ An Nam, trả ruộng đất, thả nhân dân của ta, lại lệnh kẻ đương quyền trong nước làm rõ cương giới, tìm kẻ chủ mưu, người gây hấn, đem giết ở biên cảnh, răn bảo quan lại biên giới chớ được xâm vượt. Lùi về Vĩnh Bình lập trại mộ binh, đặt quan thống lĩnh, cấp ruộng đất trâu cày, lệnh tự cày cấy làm ăn, sắp xếp bộ ngũ, thưởng phạt rõ ràng, để khi nguy cấp thì lệnh đầu đuôi ứng phó nhau, như vậy thì biên cảnh yên tĩnh, mãi không phải lo.”

Việc báo lên, nên có chỉ rằng đợi khi sứ An Nam đến sẽ lập tức dụ chúng.

 

Từ đầu thời Diên Hựu (1314) đến cuối thời Chí Trị (1323), biên cương yên ắng, cống hiến không đứt. Năm Thái Định thứ 1 (1324), Thế tử Trần Nhật Hoảng khiển bọn bồi thần Mạc Tiết Phu đến cống.

 

Ích Tắc sống lâu ở Ngạc [Châu], nhận hư chức [40] Hồ Quảng hành tỉnh Bình chương chính sự. Triều Thành Tông, được ban 200 khoảnh ruộng. Triều Vũ Tông, tiến phong Ngân Thanh Vinh Lộc đại phu, gia Kim Tử Quang Lộc đại phu, lại gia Nghi đồng tam tư. Mùa hè năm Thiên Lịch thứ 2 triều Văn Tông (1329), Ích Tắc mất, thọ 76 tuổi; xuống chiếu ban 5.000 xâu tiền. Năm Chí Thuận thứ 1 (1330), ban thụy là Trung Ý vương.

 

Mùa hè tháng 4 năm thứ 3 (1332), thế tử Trần Nhật Phụ khiển bọn bồi thần Đặng Thế Diên 24 người đến cống phương vật.

 

***


Chú thích:


1. Quản: Đơn vị hành chính thời Đường-Tống, tương đương phủ sau này.

2. Hành tại: Nơi đóng dinh tạm thời của vua chúa hoặc tướng soái.

3. Nạp khoản: Nghĩa là dâng lễ vật để tỏ ý quy thuận.

4. Đức âm: Chỉ chiếu chỉ của vua chúa.

5. Đạt lỗ hoa xích: Phiên âm từ tiếng Mông Cổ “darughachi”, là chức quan cai quản đặt ở các vùng lãnh thổ trong đế quốc Mông Cổ.

6. Hồi Cốt: Còn viết là Hồi Hột hay Hồi Kê. Nguyên gốc là phiên âm từ tên sắc tộc Uyghur ở vùng tây bắc Trung Quốc ngày nay; về sau được áp dụng chung cho người theo đạo Islam, nên mới gọi Islam là “Hồi giáo”.

7. Trên thực tế quan lại nhà Nguyên chỉ đóng ở Vân Nam, chưa từng can dự vào vấn đề nội trị của nước ta.

8. Vương nhân: Ở đây hiểu là “người của nhà vua”, chỉ sứ thần nhà Nguyên.

9. Thích lệ: Tức Xuân Thu thích lệ, tác phẩm thời Tây Tấn, giải nghĩa cho Kinh Xuân Thu.

10. Hạ sĩ: Nghĩa là quan lại, khanh tướng.

11. Ngũ đẳng bang quân: Quân chủ các nước chư hầu thời Chu, được phong năm bậc tước công, hầu, bá, tử, nam.

12. Ngoại thần: Chỉ chung vua quan các nước chư hầu.

13. Nội thần: Ở đây chỉ quan lại của triều đình.. Ở đoạn này, phía Nguyên đang dựa vào điển chế thời Chu, khi khanh tướng dưới quyền vua Chu mang địa vị cao hơn quân chủ các nước chư hầu xung quanh, để cho rằng sứ thần của mình cũng có vai vế cao hơn vua Trần.

14. Vy thần: Từ khiêm xưng, nghĩa là “người bề tôi hèn mọn”.

15. Dẫn tiến sứ: Chức quan chủ quản việc tiến dâng lễ vật.

16. Lê Văn Túy: Đại Việt sử ký toàn thư viết là Lê Túy Kim.

17. Nhật Huyên: Tức là Trần Nhân Tông. Lúc bấy giờ vua Thánh Tông vẫn còn sống, chỉ lui về làm Thái thượng hoàng, nhưng phía Nguyên thấy nước ta thay ngôi nên cho rằng Thánh Tông đã mất. Ở các đoạn sau, Nguyên sử dùng cái tên “Nhật Huyên” nhập nhằng giữa Thánh Tông và Nhân Tông.

18. Lê Hóa: Còn gọi là Lê Hoa. Tên cửa ải xưa, nằm ở vùng giáp ranh giữa tỉnh Hà Giang và Vân Nam ngày nay.

19. Phạm minh tự: Tức là viên Minh tự họ Phạm, không phải tên thật. Minh tự là một tước hiệu ở nước ta thời Lý-Trần, thấp hơn tước hầu.

20. Trịnh Quốc Toản: Toàn thư viết là Trịnh Đình Toản.

21. Cô thần: Từ khiêm xưng, nghĩa đen là “người bề tôi mất cha mẹ”.

22. Tỷ thư: Văn thư đóng dấu ngọc tỷ của vua.

23. Trần Xán: Có lẽ là Trần Ích Tắc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Ích Tắc gửi thư riêng cho nhà Nguyên, hẹn làm nội ứng.

24. Việt Lý: Tên một vùng đất của Champa, có lẽ nằm ở vùng Cửa Việt, Quảng Trị ngày nay.

25. Tỳ Lan: Không rõ ở đâu.

26. Thái tử: Chỉ Thoát Hoan.

27. Thế tử: Ở đây chỉ Trần Nhân Tông. Vì Nhân Tông chưa được nhà Nguyên phong vương, nên trong thư vẫn gọi là thế tử.

28. Chữ “pháo” ở đây có lẽ chỉ máy bắn đá (vốn là nghĩa gốc của từ này), chứ không phải hỏa khí.

29. Nguyễn phụng ngự: Tức là viên Phụng ngự họ Nguyễn.

30. Phạm điện tiền: Tức là Phạm Hải Nhai nhắc đến ở trên.

31. Văn Nghĩa hầu: Tức Trần Tú Hoãn (còn viết là Tú Viên).

32. Trên thực tế năm này nhà Nguyên chưa xuất binh. Sử quan nhà Nguyên đã chép nhầm câu này.

33. Đảo huyền: Nghĩa đen là “treo ngược lên”, ý nói tình cảnh rất thống khổ.

34. Quân tân phụ: Là quân sĩ cũ của nhà Tống đã quy thuận triều Nguyên.

35. Khoán: Tên một sắc dân ở vùng Hồ Bắc, Trung Quốc.

36. Bốn châu ngoài biển: Tức bốn châu Nhai, Quỳnh, Đạm, Vạn trên đảo Hải Nam, Trung Quốc. Người Lê hay Hlai là một sắc dân bản địa ở Hải Nam.

37. Trần Nhật Tôn: Có lẽ là tên khác của Trần Nhân Tông. Theo Toàn thư, vào năm này sứ nước ta là Ngô Đình Giới sang Nguyên cáo phó việc Trần Thánh Tông qua đời, nên tên trên biểu chương hẳn là của Nhân Tông.

38. Mạc quan: Tức quan lại phụ tá cho tướng soái.

39. Nguyễn Lộc Thế: Có thể là Nguyễn Thế Lộc, một thổ hào vùng Lạng Sơn được nhắc đến trong Toàn thư.

40. Nguyên văn là “dao thụ” (遙授), nghĩa là được nhận chức tước nhưng không có thực quyền.


(Dịch và chú thích: Quốc Bảo)

Comments